

Phạm Quỳnh | |
---|---|
![]() | |
Chức vụ | |
Ngự tiền Văn phòng Triều đình Bảo Đại | |
Nhiệm kỳ | 1932 – 1945 |
Tiền nhiệm | Nguyễn Hữu Bài |
Kế nhiệm | Trần Trọng Kim |
Thông tin chung | |
Sinh | 17 tháng 12, 1892 Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 6 tháng 9, 1945 (52 tuổi) Thừa Thiên, Trung Bộ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Trường | Trường Bưởi |
Dân tộc | Kinh |
Vợ | Lê Thị Vân (1892-1953) |
Con cái | Phạm Giao Phạm Thị Giá Phạm Thị Thức Phạm Bích Phạm Thị Hảo Phạm Thị Ngoạn Phạm Khuê Phạm Thị Hoàn Phạm Tuyên Phạm Thị Diễm (Giễm) Phạm Thị Lệ Phạm Tuân Phạm Thị Viên. |
Phạm Quỳnh (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 91 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc sử dụng chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi (尚之), bút danh: Hoa Đường (華堂), Hồng Nhân.
Ông được xem là người có tư tưởng ủng hộ sự tự trị của Việt Nam, việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến 2 . Tuy nhiên, ông cũng bị nhiều nhà yêu nước đương thời chỉ trích vì thái độ thân Pháp và sự cộng tác đắc lực cho chính quyền thực dân Pháp3
Phạm Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.
Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn).
Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16.
Từ năm 1916, Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932. Tờ báo này vốn do Pháp thành lập nhằm chống lại ảnh hưởng từ các tư tưởng chống Pháp do Phan Bội Châu], Phan Châu Trinh đang đề xướng và lan rộng trong nhân dân. Do vậy, Nam Phong chuyên viết bài truyền bá cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề": tập trung tán dương và ca tụng chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương, ca ngợi nước Đại Pháp trường tồn vĩnh viễn và các quan cai trị Pháp tại Việt Nam. Không những ca ngợi chính quyền thực dân, Nam Phong còn ca ngợi cả chính quyền phong kiến của vua Khải Định4 .
Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ. Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục. Tại đây, ông ca ngợi công cuộc "khai hóa văn minh" của nước Pháp như sau5 :
Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt của Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo France - Indochine.
Từ năm 1925 - 1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926, ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.
Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp cho thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.
Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
Năm 1931, khi gửi thư cho Tổng trưởng thuộc địa Pháp “xin lại Tổ quốc đã mất”, Phạm Quỳnh bày tỏ lòng trung thành với nước Pháp như sau3 :
Trong một đoạn khác, Phạm Quỳnh viết6 :
Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại, ông thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1944-1945).
Vua Bảo Đại viết trong hồi ký "Con rồng An Nam" rằng Phạm Quỳnh giống như một mật thám của Pháp bố trí bên cạnh để khống chế ông3 :
Trong một bài viết trên báo Sông Hương, ông đã phản đối Trần Trọng Kim và các sử gia phong kiến khi cho Triệu Đà là vua của nước Nam. Theo ông, "quốc sử phải lấy dân tộc làm nền", "sử gia phong kiến tôn y (Triệu Đà) là ông vua khai quốc, ấy là đã làm một việc vô nghĩa... Hoặc có ai ngờ cho tôi sở dĩ cái kiến giải nầy là tại quá trọng về quốc gia chủ nghĩa, và cũng bởi cái chủ nghĩa ấy khích thích nên tôi mới viết bài này"7 .
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Bảo Đại muốn tạm cử Phạm Quỳnh là người thay mặt chính phủ Việt Nam để giao thiệp với Nhật. Ông Phạm Khắc Hòe, Tổng lý Ngự triều Văn phòng của triều đình, nói với Bảo Đại rằng: “Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi tầng lớp nhân dân oán ghét và giới trí thức khinh bỉ… cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa”. Cụ Bùi Bằng Đoàn và cụ Ưng Úy là hai vị thượng thư tương đối có uy tín trong Hội đồng Cơ mật và trong quan trường nói chung đều nói với ông Phạm Khắc Hòe là “cần làm cho nhà vua thấy rõ bản chất xấu xa và nguy hiểm của Phạm Quỳnh”. Phát xít Nhật cũng không muốn dùng một con người bị nhiều điều tiếng như Phạm Quỳnh nên đã dùng Trần Trọng Kim, một con bài chính trị được họ chuẩn bị từ nhiều năm trước3
Sau khi Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, Phạm Quỳnh về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung dẫn ý kiến của bác sĩ Trần Đình Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong chính phủ Trần Trọng Kim nói về Phạm Quỳnh như sau3 :
Cuối tháng 8/1945, thực dân Pháp cho quân nhảy dù tìm cách bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh để đánh chiếm Huế, thiết lập lại chế độ do Pháp thống trị miền Trung Việt Nam. Toán quân nhảy dù Pháp bị du kích địa phương bắt được nên kế hoạch bại lộ, ông bị Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và giam ở lao Thừa Phủ, Huế.
Ông bị xử bắn sau đó cùng với nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.8
Về sau, có nguồn tin chính thức mô tả chi tiết sự kiện này: quân Pháp thả biệt kích hòng liên lạc với Phạm Quỳnh để chuẩn bị cho kế hoạch đánh chiếm miền trung, nhưng nhóm này bị bắt và để lộ thông tin, nên Phạm Quỳnh bị dân quân địa phương (Hiền Sĩ, Thừa Thiên, Huế) xử bắn do làm nội ứng cho Pháp. Theo đó, ngày 25/8/1945, một toán lính Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ, cách Huế 25 km về phía Bắc. Toán nhảy dù có 6 sĩ quan Pháp do quan tư Castella chỉ huy. Dân quân Việt Nam bố trí bắt gọn toán quân này, tịch thu vũ khí và tài liệu, gồm có: 6 khẩu súng Các-bin Mỹ, 6 khẩu súng ngắn Browning, 2 điện đài, 2 máy phát điện, 6 túi cá nhân đựng rất nhiều quân trang, đạn dược, 6 cặp sĩ quan đựng bút giấy, tài liệu và rất nhiều bản đồ in trên lụa rất có giá trị. Trong cặp của Castella có Mật lệnh của Thống chế Pháp là De Gaulle ghi rõ: "Quan tư Castella có nhiệm vụ bắt liên lạc với Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, với các lực lượng Pháp ở hải ngoại (FFE) và các lực lượng Pháp nội địa (FFI) để tổ chức chiếm lĩnh các công sở và thành lập chính quyền thuộc địa ở miền Trung Việt Nam."3
Ông Đặng Văn Việt, tham gia lực lượng đi bắt toán biệt kích Pháp, sau này là vị tướng nổi tiếng chiến đấu ở mặt trận Cao Bằng năm 1950, trong hồi ký “Hạ cờ triều đình Huế” có nói về việc chặn đứng kế hoạch của biệt kích Pháp hòng bắt liên lạc với Phạm Quỳnh như sau3 :
Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã "luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới."11
Trước đây, nhiều người phê phán ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam coi ông là tay sai đắc lực của Pháp.12
Gần đây, tại Việt Nam có một số đánh giá khác về khía cạnh văn hóa (không xét đến tư tưởng chính trị thân Pháp) đối với Phạm Quỳnh. Từ điển Văn học bộ mới (2004) coi ông là người ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước. Kể từ năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:
Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên - con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm 1945, Hồ Chí Minh đã nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức rằng: "Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng". 13
Ngày 28 tháng 5 năm 2016, hội đồng họ Phạm Việt Nam phối hợp cùng gia đình nhạc sĩ Phạm Tuyên tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng Thượng Chi Phạm Quỳnh tại Thành phố Huế. Bức tượng bán thân Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại là kiến trúc sư Tôn Thất Đại thiết kế với chiều cao 60 cm, bề ngang 50 cm, được đặt ở bục cao gần 2m nằm ngay sau ngôi mộ ông ở trước chùa Vạn Phước (phường Trường An, Thành phố Huế). Phía trước bia mộ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn”.14
Ông là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sách văn học, triết học, cách ngôn, ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội xuất bản.
Các tác phẩm của ông có thể chia làm ba loại:
Bao gồm các tác phẩm luận thuyết, phương pháp luận, sách cách ngôn, kịch bản và thơ văn...; Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên về triết học, như triết học của Descartes. Tuy nhiên, ông cũng có dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch của Corneille.
Phần quan trọng nhất trong các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo cứu.[cần dẫn nguồn] Ông nghiên cứu trong các sách chữ nho, sách tiếng Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằng tiếng Việt. Có ba ngành ông chú trọng, là:
Nhiều tác phẩm của ông liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bài Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là chữ ông dùng cho l'honnête homme) trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bài Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hoặc Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam, mô tả ảnh hưởng của Pháp đối với văn hóa Việt Nam.
Ông viết nhiều du ký ghi lại những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt Nam như:
Ngoài sáu cuốn xuất bản sau này tại Việt Nam thì còn có cuốn Hành trình nhật ký in lần thứ hai tại San Jose, Hoa Kỳ vào năm 2002 (in thành sách lần thứ nhất tại Paris năm 1997) gồm các du ký: Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ và Pháp du hành trình nhật ký. Sách do bà Phạm Thị Hoàn (sinh 1926) là con gái Phạm Quỳnh đứng bản quyền.[cần dẫn nguồn]
Trong tạp chí Nam Phong, số 86 (năm 1924), Phạm Quỳnh viết:
“ | Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn. Có gì mà lo, có gì mà sợ, còn điều chi nữa mà ngờ | ” |
— Phạm Quỳnh |
Câu nói này của Phạm Quỳnh có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Nghĩa đơn giản là ca ngợi giá trị của truyện Kiều. Còn nghĩa sâu xa thì đặt trong bối cảnh năm 1924 và việc tờ tạp chí Nam Phong vốn do Pháp lập ra, có người cho là Phạm Quỳnh viết câu này để ngầm ca ngợi Pháp và "ru ngủ" người Việt, rằng nước Việt vẫn chưa mất nước, nước Pháp không xâm chiếm mà chỉ "bảo hộ" mà thôi15
“ | Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. | ” |
“ | "Vị Thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí chống sự bảo trợ của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung Nam) và cho việc người Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của chính mình... Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ (Trung Kỳ và Bắc Kỳ) khước từ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài một điều là, dưới vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyển nổi cho nền độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu nước chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một cương vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới nay đó là một địch thủ thận trọng nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước Pháp và ông ta có thể sớm trở thành một kẻ thù không khoan nhượng...2 ". | ” |
— Thống sứ Trung Kỳ Healewyn |
“ | "...Phạm Quỳnh, trái lại chủ trương thuyết lập Hiến. Người Pháp nên thi hành đúng Hiệp ước 1884 nghĩa là chỉ đóng vai trò bảo hộ còn công việc trong nước thì để vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam Triều. Mà cũng chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam Phong, Phạm Quỳnh được cấp 600 đồng một tháng. Món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ đổi lấy danh nghĩa Chính phủ Nam Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua là một việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không đau đớn ai không khóc thầm. Thế là tôi nghĩ ra được truyện Kép Tư Bền tả một anh kép nổi tiếng về bông lơn đã phải vì giữ tín nhiệm với khán giả mà lên sân khấu nhà hát làm trò cười ngay cái tối cha mình đang hấp hối"2 . | ” |
— Nguyễn Công Hoan (Đời viết văn của tôi- Nhà xuất bản Văn học Hà Nội năm 1971). |
“ | "Phạm Quỳnh không có hành vi nào tàn ác với nhân dân, không đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân như nhiều quan lại thời Nguyễn, không ra lệnh bắt bớ tù đày các nhà yêu nước (...). Nhưng mặt khác ông lại có công chuyển tải văn hóa Đông - Tây trên văn đàn, báo giới Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ, văn hóa dân tộc Việt Nam thời đầu thế kỷ XX, công lao đó đáng được ghi nhận". | ” |
— Giáo sư Văn Tạo |
“ | "Theo tôi, qua những hành động bất nhất của Phạm Quỳnh như lúc đầu thì chửi Nam triều, rồi sau lại ca ngợi, qua Pháp ghi vào sổ vàng ở Marseille, ông đã chế nhạo vua Khải Định. Phạm Quỳnh là người có tài học nhưng không có thái độ trí thức". | ” |
— Giáo sư Phan Văn Dật |
“ | "Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi tầng lớp nhân dân oán ghét và giới trí thức khinh bỉ… cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa... (nói với vua Bảo Đại) Tôi không có thù oán cá nhân gì với Phạm Quỳnh và tôi nghĩ rằng nếu hắn có tội, thì sẽ bị nhân dân trừng trị. Khi nghĩ như vậy, tôi không ngờ rằng chỉ khoảng một tháng sau, Phạm Quỳnh đã bị đền tội trước nhân dân". | ” |
“ | "Sau đảo chính 9-3-1945, khi tiếp thu Bộ Lại của ông Phạm Quỳnh, cụ thấy một tủ sách niêm phong kỹ của viên cố vấn chánh trị người Pháp, cụ ra lệnh mở ra và đã đọc những tài liệu ghi các việc người Pháp chỉ thị cho Phạm Quỳnh thi hành và họ đã dùng những chữ rất khinh bỉ để gọi Phạm Quỳnh như một tay sai dễ bảo, trung thành. Cụ không muốn nói rõ những chữ đó là gì, cũng không muốn kể lại những việc Pháp ra lệnh cho Phạm Quỳnh làm là những việc gì, nhưng cụ có nói một câu để tóm lược tất cả: đó là những việc làm của một người phản quốc. Thế là đủ hiểu và cụ nói tiếp, từ đó tôi hoàn toàn thất vọng và khinh Phạm Quỳnh". | ” |
“ | Cục đất ngày xưa nó thế nào Nay thành ông Táo chức quyền cao Khéo mang mặt nhọ vênh vang thế Chẳng khổ lưng còm khúm núm sao? Ba bữa giữa ngày cho địa chủ Quanh năm kiếm chuyện mách Thiên Tào Một mai đất lại hoàn ra đất Cái đãy xôi chè giá đáng bao! | ” |
— Ông Táo ám chỉ Phạm Quỳnh, "Thiên Tào" ám chỉ người Pháp |
Ông có một người vợ là bà Lê Thị Vân (1892-1953) và 16 người con (3 người mất từ nhỏ). Trong đó:
Theo ông Nguyễn Thọ Dực, trưởng Ban Cổ văn, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì hồi làm việc ở triều đình Huế, ông có được Phạm Quỳnh cho biết ngày sinh để nhờ lấy số tử vi là ngày 13 tháng 12 năm Nhâm Thìn, tức 30/1/1893. Không ai cho ngày sinh sai để lấy số tử vi cả. Cho nên, ngày này được coi là chính xác nhất trong số các ngày sinh đã được biết của Phạm Quỳnh khai ở nơi này nơi khác.[cần dẫn nguồn]
Về ngày mất thì có nhiều thông tin khác nhau:
Gia đình Phạm QuỳnhKiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|archivedate=, |date=, |accessdate=
(trợ giúp)(Nguồn: Wikipedia)
Sapsan.tech là nơi chia sẻ mã giảm giá, coupon, voucher, thông tin khuyến mãi khi mua hàng online tại các website mua sắm trực tuyến lớn và uy tín tại Việt Nam. Phương châm hoạt động của Sapsan là mang đến cho bạn những thông tin mua sắm online Tiết kiệm tiền, tiết kiệm thời gian.
Liên hệ:
Copyright 2024 by DongLichSu | All Rights Reserved