

Đặng Tiểu Bình 邓小平 | |
---|---|
![]() Đặng Tiểu Bình năm 1979 | |
Chức vụ | |
Chủ nhiệm Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ | 13 tháng 9 năm 1982 – 2 tháng 11 năm 1987 5 năm, 50 ngày |
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập |
Kế nhiệm | Trần Vân |
Phó Chủ nhiệm | Bạc Nhất Ba Hứa Thế Hữu Đàm Chấn Lâm Lý Duy Hán |
![]() | |
Nhiệm kỳ | 28 tháng 6 năm 1981 – 9 tháng 11 năm 1989 8 năm, 134 ngày |
Tiền nhiệm | Hoa Quốc Phong |
Kế nhiệm | Giang Trạch Dân |
Phó Chủ tịch | Diệp Kiếm Anh Triệu Tử Dương Dương Thượng Côn |
Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | |
Nhiệm kỳ | 6 tháng 6 năm 1983 – 19 tháng 3 năm 1990 6 năm, 286 ngày |
Tiền nhiệm | Lưu Thiếu Kỳ (Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng,năm 1968) |
Kế nhiệm | Giang Trạch Dân |
Phó Chủ tịch | Diệp Kiếm Anh Triệu Tử Dương Dương Thượng Côn |
![]() | |
Nhiệm kỳ | 3/8/1978 – 17/6/1983 |
Tiền nhiệm | Chu Ân Lai |
Kế nhiệm | Đặng Dĩnh Siêu |
Phó Chủ tịch | Ô Lan Phu Vi Quốc Thanh Bành Trùng Triệu Tử Dương |
![]() | |
Nhiệm kỳ | 5/1/1975 – 7/4/1976 17/7/1977-2/3/1980 |
Tiền nhiệm | Hoàng Vĩnh Thăng |
Kế nhiệm | Dương Đắc Chí |
Phó Tổng Tham mưu trưởng | Ngũ Tu Quyền Vương Tranh Trì Hạo Điền |
![]() | |
Nhiệm kỳ | 3/1954 – 10/1968 2/1973-4/1976 8/1977-9/1980 |
Tổng lý | Chu Ân Lai → Hoa Quốc Phong |
![]() | |
Nhiệm kỳ | 10/1/1975 – 7/4/1976 19/8/1977-12/9/1982 |
Chủ tịch | Mao Trạch Đông → Hoa Quốc Phong → Hồ Diệu Bang |
Thông tin chung | |
Đảng phái | ![]() |
Sinh | 22 tháng 8, 1904 |
Mất | 19 tháng 2, 1997 (92 tuổi) |
Học vấn | Đại học |
Trường | Đại học Trung Sơn Moscow |
Nghề nghiệp | Chính trị gia, nhà Quân sự,nhà Ngoại giao,nhà Cách mạng |
Vợ | Trương Tích Viên (kết hôn 1928–1929) Kim Duy Ánh (kết hôn 1931–1933) Trác Lâm (kết hôn 1939–1997) |
Con cái | Đặng Lâm (1941-) Đặng Phác Phương (1944-) Đặng Nam (1945-) Đặng Dung (1950-) Đặng Chất Phương (1952-) |
Đặng Tiểu Bình (cần dẫn nguồn].
giản thể: 邓小平; phồn thể: 鄧小平; bính âm: Dèng Xiǎopíng; 22 tháng 8 năm 1904 - 19 tháng 2 năm 1997) có tên khai sinh là Đặng Tiên Thánh, khi đi học mới đổi là Đặng Hi Hiền (邓希贤), là một lãnh tụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tên gọi Đặng Tiểu Bình được ông dùng từ năm 1927, sau khi Tưởng Giới Thạch đàn áp phong trào cách mạng Cộng sản tại Thượng Hải[Tuy rằng ông chưa bao giờ có chức vụ nguyên thủ quốc gia hay đứng đầu chính phủ nhưng ông là người đã cầm quyền trên thực tế (lãnh tụ) tại Trung Quốc trong suốt những năm cuối thập niên 1970 đến đầu thập niên 1990. Ông từng giữ qua các chức vụ: Phó Chủ tịch Đảng, Tổng thư ký Trung ương Thư ký Xứ Đảng Cộng sản Trung Quốc (còn gọi là Tổng thư ký Ban Bí thư Trung ương), Phó Thủ tướng Quốc vụ viện (1952-1966, 1973-4/1976, 7/1977-1987), Tổng tham mưu trưởng Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc (1978-1983). Đặc biệt là Chủ nhiệm Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng (1982-1987) và Chủ tịch Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (6/1981-6/1989). Với vai trò là lãnh tụ tối cao của đất nước, ông đã khởi xướng công cuộc cải cách nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa theo hướng "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc", có công thu hồi Hồng Kông và Ma Cao với chính sách "một nước hai chế độ".
Ông sinh tại thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện Quảng An, phía đông tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, và là con trai ông Đặng Thiệu Xương (tự Văn Minh), một địa chủ khá giả và là hội viên của một hội nhóm hoạt động bí mật nhằm khích động lật đổ triều đình quân chủ,1 và bà Đàm Thị, vợ thứ hai. Bà vợ đầu không có con, bà thứ hai (Đàm Thị) sinh được một gái đầu và 3 trai: Đặng Tiên Liệt, Đặng Tiểu Bình, Đặng Khẩn, Đặng Thục Bình. Bà thứ ba sinh được một trai, bà thứ tư (Hạ Bá Căn) sinh được 2 trai, 3 gái. Mẹ đẻ Đặng Tiểu Bình mất sớm, nên sau này ông đã mời mẹ kế Hạ Bá Căn từ quê lên thủ đô sống chung cùng gia đình ông.
Sau khi vào học trung học tại huyện nhà, cha Đặng Tiểu Bình đã xin cho Đặng Tiểu Bình theo học Trường dự bị cần công kiệm học Trùng Khánh để chuẩn bị xuất dương sang Pháp. Ngày 7 tháng 9 năm 1920, sau khi được Tổng lãnh sự Pháp tại Trùng Khánh trực tiếp sát hạch, Hi Hiền cùng 79 bạn khác lên tàu thủy đi Marseille. Ông đã học ở Pháp, giống như những nhà cách mạng có tiếng khác của Châu Á như Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Tại đây ông đã đi theo học thuyết Marx-Lenin, gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1922 và Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1924.
Năm 1926, Đặng Tiểu Bình rời Paris sang Nga học trường Đại học Tôn Trung Sơn Moscow. Ông cùng học với Tưởng Kinh Quốc.
Ông về nước đúng lúc đang diễn ra chiến tranh Bắc phạt. Ông làm ủy viên chính trị trong quân đoàn của Phùng Ngọc Tường, tham gia Bắc phạt. Sau khi bị Phùng Ngọc Tường cho giải ngũ, ông đi Tây An rồi Hán Khẩu, tiếp tục hoạt động cách mạng.
Năm 1938, lúc ông chỉ huy kháng Nhật ở Thái Hàng Sơn thì cha ông bị thổ phỉ chặt đầu.
Sau giải phóng, ông làm Bí thư thứ nhất Cục Tây Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quân ủy Tây Nam, Chính ủy Quân khu Tây Nam (đóng trụ sở tại Trùng Khánh), kiêm thành viên Chính phủ Nhân dân Trung ương.
Tháng 7 năm 1952, ông được cử làm Phó Tổng lý (Phó Thủ tướng) Chính vụ viện (sau đổi là Quốc vụ viện), kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-kinh tế. Năm 1955, ông cùng Lâm Bưu được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1956, ông vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, làm Tổng Bí thư Ban bí thư Trung ương, đứng cuối cùng (thứ 6) trong Ban Thường vụ, sau Mao Trạch Đông (Chủ tịch Đảng), Lưu Thiếu Kì, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân (đều là Phó Chủ tịch Đảng).
Năm 1966, trong Cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình bị phê phán nặng nề là "tên số hai trong Đảng đi theo chủ nghĩa tư bản", rồi bị cách tuột hết mọi chức vụ. Từ năm 1969 đến năm 1972, hai vợ chồng ông bị đưa về Giang Tây, con cái đều bị đưa đi cải tạo ở các tỉnh khác.
Ngày 20 tháng 3 năm 1973, ông rời Giang Tây, quay trở lại Trung Nam Hải (Bắc Kinh), sau khi được phục hồi công tác. Ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, rồi Phó Chủ tịch Đảng. Về mặt chính quyền, ông trở lại cương vị Phó Thủ tướng, rồi Phó Thủ tướng thứ nhất. Khi Chu Ân Lai lâm bệnh nặng, ông chủ trì công việc của Quốc vụ viện.
Năm 1976, sau khi Chu Ân Lai mất, thế lực chống đối viện cớ ông có tư tưởng phản cách mạng và tác động đến Mao Trạch Đông, vì vậy ông lại bị Mao Trạch Đông cách hết các chức vụ, chỉ còn danh hiệu đảng viên và hộ khẩu Bắc Kinh. Ông là người phát động phong trào biểu tình ủng hộ cố thủ tướng Chu Ân Lai ngày 5 tháng 4 năm 1976.
Sau khi nhóm người được gọi là "bè lũ bốn tên" bị lật đổ, Đặng Tiểu Bình được khôi phục tất cả các chức vụ (1978): Phó Chủ tịch Đảng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng. Từ đây, ông bắt đầu đưa Trung Quốc bước vào kỉ nguyên cải cách mở cửa.
Sau khi trở lại chính trường, năm 1978 Đặng Tiểu Bình tung ra chương trình ‘Bốn hiện đại hóa’ và lại để cho dân dán ‘Đại tự báo’ nhưng lần này là để tố cáo những đau khổ do Cách mạng Văn hóa gây ra.
Năm 1979, Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ nhằm bình thường hoá quan hệ hai nước. Ngay sau đó ông chỉ đạo "dạy cho Việt Nam một bài học" trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 mà kéo dài cho tới 1990 (xem Xung đột Việt–Trung 1979–90), vì Việt Nam đã đưa quân dánh đuổi chế độ Pol Pot ở Kampuchia, một đồng minh của Trung Quốc.2 . Nó cũng nằm trong chính sách Đặng Tiểu Bình theo đuổi nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Suốt một thời gian dài sau đó, chính sách bao vây kinh tế và pháo kích biên giới của Đặng Tiểu Bình đã gây nhiều khó khăn cho Việt Nam.3
Vào năm 1989, Sự kiện Thiên An Môn diễn ra, đây là cuộc biểu tình đòi dân chủ của các sinh viên Trung Quốc. Một số nguồn cho rằng Đặng Tiểu Bình theo phe ủng hộ sự thay đổi trong nền kinh tế Trung Quốc, cùng với một số đồng minh như Triệu Tử Dương. Không có một báo cáo chính xác về vai trò của Đặng Tiểu Bình trong cuộc biểu tình, dù có một số người tin rằng ông ta đã tham gia vào việc ra lệnh cho quân đội trấn áp cuộc biểu tình. Sau sự kiện Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình lui khỏi chính trường nhưng vẫn đóng một vai trò quan trọng ở Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình qua đời năm 1997.
Người vợ thứ ba của ông là Trác Lâm, có năm con.
Câu nói có tầm ảnh hưởng nhất của ông là:
“ | Chỉ có thực tiễn mới kiểm nghiệm được chân lý. | ” |
Câu nói của Đặng Tiểu Bình được nhiều người biết đến là:
“ | Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng miễn là nó bắt được chuột. | ” |
Tháng 12 năm 1978 trong chuyến thăm các nước Đông Nam Á, chỉ vài tháng trước cuộc chiến với Việt Nam, ông nói một câu được Trung Quốc truyền hình trực tiếp:
“ | Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học4 . | ” |
(Nguồn: Wikipedia)
Sapsan.tech là nơi chia sẻ mã giảm giá, coupon, voucher, thông tin khuyến mãi khi mua hàng online tại các website mua sắm trực tuyến lớn và uy tín tại Việt Nam. Phương châm hoạt động của Sapsan là mang đến cho bạn những thông tin mua sắm online Tiết kiệm tiền, tiết kiệm thời gian.
Liên hệ:
Copyright 2024 by DongLichSu | All Rights Reserved