

Võ Tắc Thiên 武則天 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa Đường Cao Tông Hoàng hậu | |||||||||
![]() Chân dung Võ Tắc Thiên đội Phượng quan được phục dựng vào thế kỷ 18 dựa trên một bức chân dung tưởng tượng về Võ Tắc Thiên thời nhà Minh, tức là khoảng một thiên niên kỷ sau cái chết của bà[1] | |||||||||
Nữ hoàng nhà Võ Chu | |||||||||
Tại vị | 19 tháng 10 năm 6902 - 22 tháng 2 năm 7053 (14 năm, 126 ngày) | ||||||||
Tiền nhiệm | Sáng lập triều đại | ||||||||
Kế nhiệm | Triều đại kết thúc | ||||||||
Hoàng hậu nhà Đường | |||||||||
Tại vị | 655 – 683 | ||||||||
Tiền nhiệm | Cao Tông Phế hậu | ||||||||
Kế nhiệm | Trung Tông Vi Hoàng hậu | ||||||||
Hoàng thái hậu nhà Đường | |||||||||
Tại vị | 683 - 690 | ||||||||
Tiền nhiệm | Hoàng thái hậu đầu tiên | ||||||||
Kế nhiệm | Vi Thái hậu | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Phối ngẫu | Đường Thái Tông Đường Cao Tông | ||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||
| |||||||||
Tước hiệu | Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝) | ||||||||
Hoàng tộc | Võ Chu Nhà Đường | ||||||||
Thân phụ | Võ Sĩ Hoạch | ||||||||
Thân mẫu | Dương Phu nhân | ||||||||
Sinh | 17 tháng 2, 6246 Văn Thủy, Tinh Châu, Đại Đường | ||||||||
Mất | 16 tháng 12, 705 (81 tuổi) Thượng Dương cung, Trường An, Đại Đường | ||||||||
An táng | Càn lăng huyện Càn, Thiểm Tây | ||||||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Võ Tắc Thiên (chữ Hán: 武則天, 17 tháng 2, 624 - 16 tháng 12, 705[3]), cũng được đọc là Vũ Tắc Thiên[ten-nhan-vat 1], thường gọi Võ hậu (武后) hoặc Thiên Hậu (天后), là một phi tần ở Hậu cung của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, sau trở thành Hoàng hậu của Đường Cao Tông Lý Trị, về sau trở thành Hoàng đế triều đại Võ Chu làm gián đoạn nhà Đường. Bà là mẹ của 2 vị Hoàng đế kế tiếp, Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán.
Cùng với tôn hiệu Thiên Hậu của bà và tôn hiệu Thiên Hoàng (天皇) của Đường Cao Tông, 2 người đã đồng trị vì nhà Đường trong một thời gian dài và cùng được gọi là Nhị Thánh (二聖). Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Thiên Hậu trải qua các đời Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông với tư cách Hoàng thái hậu, và cuối cùng trở thành Hoàng đế duy nhất của triều đại Võ Chu, triều đại mà bà sáng lập tồn tại từ năm 690 đến năm 705. Do đó, Võ Tắc Thiên trở thành Nữ hoàng duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc[7]. Dù vậy, Cựu Đường thư và Tân Đường thư vẫn chỉ gọi bà là Thái hậu ngay cả sau khi bà tự xưng Đế, đó là vì vấn đề không nhìn nhận địa vị của bà trong thời đại cũ.
Trong 15 năm cai trị với tôn hiệu Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝), Võ Tắc Thiên mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, hoàn thành cuộc chinh phục bán đảo Triều Tiên. Nội địa khuyến khích phát triển Phật giáo, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, duy trì sự ổn định trong nước. Tuy nhiên, do tư tưởng nam tôn nữ ti đã ăn sâu trong lòng xã hội phong kiến, lại thêm tính cách độc ác, hà khắc trong việc cai trị khiến đông đảo cựu thần nhà Đường không phục. Cuối đời, bà có hai nam sủng là anh em họ Trương, Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi, cùng họ dâm loạn trong cung, vì sủng ái hai anh em mà bà dung túng cho 2 người chuyên quyền, khiến nhiều quần thần bất bình. Tới năm 705, Tể tướng đương triều là Trương Giản Chi cùng các đại thần phát động binh biến, ép Võ hậu thoái ngôi và đưa Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai. Bà bị giam lỏng ở Thượng Dương cung tại Lạc Dương cho đến khi qua đời không lâu sau đó, với tuổi thọ là khi 82 tuổi. Bà cũng trở thành 1 trong 3 vị Hoàng đế Trung Hoa có tuổi thọ cao nhất (trên 80 tuổi), bên cạnh Lương Vũ Đế Tiêu Diễn (87 tuổi) và Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế (89 tuổi).
Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ, thường so sánh bà với Lã hậu nhà Hán bởi sự chuyên quyền và tàn độc, được gọi chung là Lã Võ (吕武)[8]. Khi đánh giá khái quát lịch sử Trung Hoa, Võ Tắc Thiên cùng 2 vị "Nữ hoàng không miện" là Lã hậu và Từ Hi Thái hậu là 3 phụ nữ nắm quyền lực tối cao nhất từng xuất hiện trong các triều đình phong kiến Trung Hoa, bị dân gian coi là những "gian hậu loạn triều" tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ xã tắc. Tuy nhiên, các nhà sử học từ sau những năm 1950 đã đánh giá bà cân bằng hơn. Võ Tắc Thiên có những chỗ dở như tàn nhẫn giết hại nhiều người thân, hà khắc làm người dân khiếp sợ, dâm loạn khiến thiên hạ chê cười, nhưng bà cũng biết trọng dụng nhân tài và có một số thành công trong việc cai trị.
Tên thật của Võ Tắc Thiên không được ghi lại, cái tên Võ Chiếu (武曌) là bà tự sáng tạo ra, ví mình như Mặt trời, Mặt trăng trên không trung[9][10][11]. Năm sinh của bà, căn cứ theo các cuốn Cựu Đường thư, Tân Đường thư lẫn Tư trị thông giám đều có mâu thuẫn. Trong Cựu Đường thư, Võ thị được ghi qua đời khi năm 83 tuổi[12], suy ra bà ra đời ở năm Vũ Đức thứ 7 (624), tuy nhiên Tân Đường thư lại ghi nhận Võ thị qua đời khi năm 81 tuổi[13], còn Tư trị thông giám là khi năm 82 tuổi[14], đảo suy ra là sinh hạ vào năm Vũ Đức thứ 8 (625). Tuy nhiên, bản thân Tư trị thông giám vào năm Trinh Quán thứ 11 (637), Võ thị 14 tuổi nhập cung là hoàn toàn mâu thuẫn[15]. Một số đưa ra rằng Võ thị sinh ra năm Trinh Quán thứ 2 (628)[16][17], đến cuối cùng nhiều nhận định vẫn lấy năm Vũ Đức thứ 7 (624) làm năm sinh của bà.
Bà xuất thân từ gia tộc họ Võ có nguồn gốc từ vùng Văn Thủy, Tinh Châu (nay là Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc). Cha bà là Võ Sĩ Hoạch, xuất thân trong một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, ông nội Võ Hoa, từng nhậm Quận thừa Lạc Dương giàu có. Mẹ bà là Kế thất phu nhân Dương thị, xuất thân từ gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ, là con gái của tông thất Dương Đạt (楊達) - em trai của Kiến Đức vương Dương Hùng (杨雄), con trai của Dương Thiệu (杨绍), tộc huynh của Tùy Văn Đế Dương Kiên của nhà Tùy. Trong nhà bà có 2 anh trai là Võ Nguyên Khánh và Võ Nguyên Sảng là con của chính thất Lý thị đã qua đời; 1 người chị cùng mẹ là Võ Thuận và 1 em gái là phu nhân của Quách Hiếu Thuận (郭孝慎).
Ban đầu, Võ Sĩ Hoạch làm nghề buôn bán gỗ, cuộc sống gia đình tương đối khá giả, được triều Tùy ban chức "Ưng Dương phủ đội chính". Những năm Đại Nghiệp thời Tùy Dượng Đế, Đường Cao Tổ Lý Uyên khi ấy giữ tước Đường quốc công, từng nhiều lần đến vùng Phần, Tấn và thăm nhà họ Võ, hai bên có quan hệ thân thiết với nhau. Khi nhà Đường thành lập, nhà họ Võ được Đường Cao Tổ hậu đãi, ban cho bổng lộc, đất đai và trang sức rất nhiều. Về sau, Võ Sĩ Hoạch được ban nhiều chức vị quan trọng, làm đến chức Đô đốc Kinh châu[18], Thượng thư bộ Công, tước Ứng Quốc công (應國公).
Do được sinh trưởng trong một gia đình khá giả, từ nhỏ Võ thị không cần làm nhiều công việc, bản thân bà cũng không thích may vá, thêu thùa và làm việc nhà, thay vào đó bà rất quan tâm đến việc đọc sách. Cha bà Võ Sĩ Hoạch lại khuyến khích bà học chữ và đọc nhiều sách, trái ngược với tư tưởng thời bấy giờ là phụ nữ không cần phải học hành mà phải tập làm công việc nhà. Do đọc nhiều sách, bà có kiến thức uyên bác hơn nhiều phụ nữ đương thời, tinh thông về chính trị, văn học, nghi lễ và âm nhạc.
Năm Trinh Quán thứ 9 (635), Võ Sĩ Hoạch qua đời; đường huynh Võ Duy Lương, Võ Hoài Vận cùng anh cả Võ Nguyên Sảng đối xử với mẹ bà là Dương phu nhân rất vô lễ.
Năm Trinh Quán thứ 11 (637), tháng 11, Đường Thái Tông nghe nói Võ thị có tiếng xinh đẹp nên triệu Võ thị vào cung, phong làm Tài nhân, cấp bậc thứ năm trong chín bậc thuộc hậu cung[15][19][20]. Lúc đó, mẫu thân bà là Dương thị than khóc không thôi, bà cố gắng an ủi mẹ mình: "Cớ chi mẫu thân lại bảo gặp được Thiên tử không phải là phúc phận của con"[21]. Qua lời an ủi đó, Dương thị đoán ra được chí lớn của con mình, nên thôi không khóc nữa.
Khi vào cung, Võ thị được Đường Thái Tông ban cho chữ Mị (媚) làm tên, vì thế người ta cũng thường gọi bà là Võ Mị (武媚)[19][22]. Và tuy đời sau lại thường gọi thành Võ Mị Nương, nhưng đương thời không thấy ai gọi như vậy. Võ Tài nhân vào cung, bà cùng Yến Đức phi, Dương Tiệp dư cùng Sào Lạt vương phi Dương thị của Thái Tông đều có họ hàng bên ngoại. Võ thị tuy có vài lần được ngự hạnh nhưng nói chung là không được Đường Thái Tông sủng ái[23].
Sử sách ghi chép rất ít về những hành trạng của bà trong thời gian này. Sách Tư trị thông giám dẫn lời của Võ thị khi về già, kể về một sự tích thuần phục ngựa như sau:
Năm Trinh Quán thứ 17 (643), Đường Thái Tông phế truất Thái tử Lý Thừa Càn, lập Tấn vương Lý Trị làm Thái tử. Từ đây, Võ Tài nhân thường ở bên cạnh phụng dưỡng, hầu thuốc cho Thái Tông, liền bị Thái tử trông thấy mà say mê[25]. Năm thứ 23 (649), Đường Thái Tông qua đời. Thái tử Lý Trị lên nối ngôi, tức Đường Cao Tông[23]. Trong hơn 10 năm làm Tài nhân, Võ thị không hề sinh được một người con nào, vì thế theo di mệnh của Tiên hoàng đế, bà và tất cả các phi tần không có con khác phải cạo tóc, xuất gia làm ni cô, vào tu ở Cảm Nghiệp tự (感業寺).
Năm Vĩnh Huy nguyên niên (650), tháng 5, nhân ngày giỗ của cha, Cao Tông đến Cảm Nghiệp tự và tình cờ gặp lại bà, hai người ôm nhau mà khóc. Võ thị lúc đó đã cạo đầu song nhan sắc vẫn diễm lệ, nói năng êm tai nên tình cũ trỗi dậy, ông nảy ý rước bà về cung. Đường Cao Tông lên ngôi lúc tuổi trẻ, lại không có tài năng gì, chỉ vì hai người anh đều phạm lỗi mà mới đến lượt mình nối ngôi. Sức khỏe nhà vua lại không tốt, thường bị hoa mắt, chóng mặt, khó quản hết việc triều chính[26]. Khi ấy trong hậu cung, Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi đấu đá lẫn nhau. Hoàng hậu không có con, nhận nuôi thái tử Lý Trung, còn Thục phi sinh ra Hoàng tử Lý Tố Tiết và hai Công chúa. Trông thấy Tiêu Thục phi được sủng ái, Vương Hoàng hậu ghen ghét, muốn mượn tay Võ thị giành lấy sự sủng ái của Thục phi[27], bèn xin Cao Tông cho rước về cung[28].
Năm Vĩnh Huy thứ 2 (651), tháng 5, Đường Cao Tông cáo lệnh chính thức kết thúc tang kỳ, lệnh Võ thị hoàn tục, chính thức đưa Võ thị trở lại hậu cung. Vào lúc này, Võ thị đang mang thai đứa con đầu lòng, là Lý Hoằng.
Năm Vĩnh Huy thứ 3 (652), Võ thị sinh con trai Lý Hoằng. Nhiều sử sách nói bà mang thai và hạ sinh tại chùa Cảm Nghiệp, càng khiến Cao Tông muốn đưa bà hồi cung trao danh phận. Tháng 5 năm ấy, gần như ngay lập tức, Võ thị được bái làm Chiêu nghi. Từ khi về cung, Võ thị ra sức lấy lòng Đường Cao Tông và Vương Hoàng hậu. Đường Cao Tông cũng hết mực sủng ái bà, do thế mà Tiêu Thục phi thất sủng. Tuy Võ Chiêu nghi sinh hạ con trai, được Hoàng đế rất mực yêu quý, song ngôi vị Hoàng thái tử trong cung vẫn đang thuộc về Lý Trung, con trai cung nhân Lưu thị, được Vương Hoàng hậu nhận làm con nuôi[29].
Năm Vĩnh Huy thứ 5 (654), tháng giêng, Võ Chiêu nghi hạ sinh một con gái, An Định Tư công chúa. Theo Tân Đường thư và Tư trị thông giám, cả hai cuốn sách đều được soạn dưới thời nhà Tống, chỉ ra rõ ràng chính Võ thị đã giết đứa bé để tranh sủng. Một hôm, Vương Hoàng hậu đi thăm Công chúa vừa về, Võ Chiêu nghi liền đóng hết cửa rèm lại rồi bóp mũi giết chết Công chúa, sau đó lại đắp chăn lên che giấu. Khi đó, Cao Tông đến thăm Võ Chiêu nghi, khi cả hai vui vẻ mở chăn ra, phát hiện Công chúa đã chết, Võ thị bèn khóc lóc không thôi. Cao Tông buồn bực hỏi người Thị nữ, tất cả đều nói Hoàng hậu từng ở đây và rời đi, Tân Đường thư còn ghi chính Võ thị mắng: "Hoàng hậu giết con gái ta, trước cùng Phi sàm mạo, nay thực có ý tà niệm!". Đường Cao Tông phẫn uất nói: "Hoàng hậu giết con gái ta rồi!"[30][31]. Nước cờ đổ lỗi của Võ Chiêu nghi hoàn thành mỹ mãn, trong khi Vương Hoàng hậu không còn cách nào để tự biện minh. Từ đó, Đường Cao Tông nảy ý phế hậu, đưa Võ Chiêu nghi lên thay. Tuy nhiên, sự việc này có hồ nghi, bởi vì Cựu Đường thư và Đường hội yếu (唐会要) đều chỉ nói qua việc An Định Tư công chúa chết đột ngột, mà không nói nguyên nhân.
Sau sự kiện trên, Cao Tông đã có ý triển khai phế Vương Hoàng hậu, được gọi là Phế Vương lập Võ (废王立武). Lúc ấy triều đình lấy Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng Chử Toại Lương (褚遂良) là nguyên thủ lĩnh triều, có quyền lực cực lớn, mà Đường Cao Tông lên ngôi nhiều năm vẫn luôn bị áp chế. Do vấn đề này, không ít nhận định tin tưởng Cao Tông mượn chuyện phế Hậu là nhằm công kích phe Cựu thần, chấn chỉnh triều cương. Võ Chiêu nghi từ đấy cũng trở thành "chiến hữu" của Cao Tông. Trong triều, Trung thư Xá nhân Lý Nghĩa Phủ (李義府), Lễ bộ Thượng thư Hứa Kính Tông (許敬宗) đều ủng hộ lập Võ thị, tình hình phe phái cũng càng gay gắt hơn. Thời gian sau, Đường Cao Tông đề nghị muốn phong Võ Chiêu nghi làm Thần phi (宸妃), cuối cùng vì Tể tướng Hàn Viện (韩瑗) phản đối mới bèn thôi[32].
Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), mùa hạ, Võ Chiêu nghi tố cáo mẫu thân của Vương Hoàng hậu là Ngụy Quốc phu nhân Liễu thị đã cùng Hoàng hậu dùng bùa phép hãm hại mình, từ đó Liễu thị không được vào cung nữa. Cậu của hoàng hậu là Trung thư lệnh Liễu Thích (柳奭) bị giáng chức. Trong lúc đó, Trung thư Xá nhân Lý Nghĩa Phủ vốn bị Trưởng Tôn Vô Kỵ ghét, vốn bị Vô Kỵ biếm chức, nhân đó dâng sớ xin phế Hậu lên Cao Tông. Cao Tông vui mừng, bèn cho triệu Lý Nghĩa Phủ vào cung, cho phục chức. Phe cánh của Võ Chiêu nghi ngày càng lớn mạnh. Mùa thu năm ấy, Cao Tông triệu Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương và Lý Thế Tích vào hỏi ý kiến việc Phế hậu, Lý Thế Tích cáo ốm không tới. Trong buổi nghị sự, Chử Toại Lương đều lên tiếng can ngăn Cao Tông, còn Trưởng Tôn Vô Kỵ im lặng để tỏ ra không hài lòng. Cao Tông đến hỏi Lý Thế Tích, Tích nói: "Đó là gia sự của bệ hạ, không cần hỏi đến ngoại thần"[33]. Vấn đề "Phế Vương lập Võ" càng lúc càng có lợi cho Võ Chiêu nghi.
Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), ngày 13 tháng 10 (tức ngày 27 tháng 11 dương lịch), Đường Cao Tông lấy tội danh Âm mưu hạ độc (阴谋下毒), ra chỉ phế truất Hoàng hậu Vương thị, Tiêu Thục phi làm thứ nhân và giam vào Biệt viện, đày gia tộc đến Lĩnh Nam.
Sau đó 7 ngày, tức ngày 20 tháng 10 (âm lịch), Đường Cao Tông lần nữa hạ chiếu đem lập Võ Chiêu nghi làm Hoàng hậu. Từ khi bị phế, Tiêu thị và Vương thị bị giam ở biệt viện, Cao Tông chưa dứt hẳn tình, nhiều lần đến thăm. Tiêu phế phi nhân đó khóc lóc xin Cao Tông thương tình. Võ hậu tức giận, sai chặt hết tay chân hai người, đem đi ngâm giấm. Sau này Võ hậu bị ám ảnh bởi cái chết của Tiêu phế phi, thường gặp ác mộng. Thời gian về sau bà cùng Cao Tông thường di giá đến Lạc Dương và ở đó rất lâu[34][35].
Đầu năm Hiện Khánh nguyên niên (656), Hoàng thái tử Lý Trung bị phế truất. Trước đó, đại thần Hứa Kính Tông dâng sớ xin thay luôn ngôi Hoàng thái tử, phế Lý Trung mà lập con trai cả của Võ Hoàng hậu là Lý Hoằng. Vì lý do này, Đường Cao Tông ép Thái tử viết biểu nhường ngôi, Thái tử bất đắc dĩ phải nghe theo. Tháng 2 năm ấy, Cao Tông lập Đại vương Lý Hoằng làm Hoàng thái tử, giáng Thái tử Lý Trung làm Lương vương (梁王), cho nhậm lĩnh Đô đốc Lương châu, như thông lệ của tất cả các Phiên vương nhà Đường.
Từ năm Hiện Khánh thứ 2 (657), Võ hậu cùng phe đảng tìm cách trả thù những người không ủng hộ mình, ban đầu là Chử Toại Lương và Hàn Viện. Cùng năm ấy, Đường Cao Tông hạ chỉ giáng Chử Toại Lương làm Đô đốc Đàm Châu[36][37]. Cuối cùng, Chử Toại Lương bị biếm đến Quế Châu rồi Ái Châu, An Nam, cuối cùng uất ức mà chết vào tháng 10 (ÂL) sang năm, tức năm 658 công lịch. Vào năm Hiện Khánh thứ 4 (659), Võ hậu giật dây cho Hứa Kính Tông và Lý Nghĩa Phủ hãm hại Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng các thế lực chống đối khác dứt điểm. Lúc đó, có người tố cáo hai viên quan là Vi Quý Phương (韋季方) và Lý Sào (李巢) mưu làm việc trái phép, Đường Cao Tông giao cho Hứa Kính Tông điều tra. Kính Tông dụ dỗ Quý Phương khai rằng Triệu Quốc công Trưởng Tôn Vô Kỵ có thông đồng với mình. Cao Tông bất ngờ về việc này, lại sai Kính Tông đưa Vô Kị ra tra xét. Cuối cùng, Vô Kị bị bãi bỏ phong ấp và chức Thái úy, giáng làm Dương Châu Đô đốc, đày đến Kiềm Châu[38]. Hứa Kính Tông nhân đó tố cáo Chử Toại Lương cùng Hàn Viện và Liễu Thích. Viện và Thích bị bãi chức, còn Chử Toại Lương tuy đã chết cũng bị trừ quan tước. Cuối cùng, Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng bị bức tử trong năm đó[39]. Kết cuộc của Hàn Viện cũng không khá hơn, sau khi bị đoạt chức tước thì ông bị biếm làm Thứ sử Ái Châu. Những người khác như Vu Chí Ninh (于志寧) và Lai Tế (來濟), khi trước cũng thuộc phe Cựu thần phản đối lập Võ thị, nay cũng đều bị điều đi khỏi kinh sư.
Đến tận đây, Đường Cao Tông Lý Trị mới bắt đầu công cuộc "quân chủ tập quyền", nắm được quyền lực tuyệt đối cho các Hoàng đế nhà Đường. Từ khi Tào Ngụy và nhà Tấn đến khi sự kiện Phế Vương lập Hậu diễn ra, quân chủ Trung Quốc chịu thời gian dài bị tầng lớp quan lại kiềm chế. Nhờ sự kiện này, chính quyền quân chủ một lần nữa được cải thiện, đối với cục diện lịch sử về sau cũng ảnh hưởng rất lớn.
Trước kia, Võ Sĩ Hoạch lấy vợ cả là Tương Lý thị, sinh hai con trai Nguyên Sảng, Nguyên Khánh; sau lại lấy Dương thị sinh ba con gái: người con đầu là Võ Thuận lấy Hạ Lan An Thạch (賀蘭安石), thứ hai là Võ hậu, người thứ ba lấy Quách Hiếu Thân (郭孝慎) và mất sớm. Sĩ Hoạch chết, Nguyên Sảng, Nguyên Khánh cùng con người anh Sĩ Hoạch là Võ Duy Lương (武惟良), Võ Hoài Vận (武懷運) tỏ ra bất kính với Dương thị nên bị bà ta ghét. Khi đó, An Thạch và Hiếu Thận cũng đã chết, vợ An Thạch sinh ra Hạ Lan Mẫn Chi (賀蘭敏之) và một người con gái. Võ hậu từ khi được lập, Dương thị trở thành Vinh Quốc phu nhân (榮國夫人); vợ An Thạch là Võ Thuận làm Hàn Quốc phu nhân (韓國夫人), bọn Nguyên Sảng đều được phong chức vị cao. Vào một hôm, Vinh Quốc phu nhân bày tiệc rượu trong gia đình, bọn Duy Lương tỏ thái độ bất mãn, phu nhân rất giận[40]. Võ hậu biết chuyện, liền đày bọn Duy Lương làm Thứ sử các Châu xa. Nguyên Khánh, Nguyên Sảng lo buồn mà chết.
Gia tộc hiển quý, Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận và con gái Hạ Lan thị thường ra vào cung, có tin đồn cả hai là tình nhân của Cao Tông. Khi Hàn Quốc phu nhân đột ngột qua đời, Cao Tông phong cho con gái Võ thị là Hạ Lan thị làm Ngụy Quốc phu nhân (魏國夫人), lại muốn nạp vào cung để tư thông. Võ hậu nảy sinh ghen tuông, tỏ ra không bằng lòng. Khi bọn Duy Lương, Hoài Vận về kinh và dâng đồ ăn, Võ hậu bí mật bỏ độc vào đó và đem đến cho Ngụy Quốc, khiến Hạ Lan thị bị trúng độc mà chết. Sau đó, Võ hậu quy tội cho Duy Lương, Hoài Vận và giết hết đi[40]. Khi mẹ Võ hậu là Dương phu nhân qua đời, Võ hậu bắt tất cả đại thần phải đến đưa tang và khóc tang. Cuối năm này, trong nước hạn hán, Võ hậu dâng sớ nói việc đó là do mình, xin từ bỏ ngôi vị, Cao Tông không chấp nhận. Sau đó, Võ hậu xin biểu truy phong Võ Sĩ Hoạch, vốn là Chu Định công, nay trở thành Thái Nguyên Quận vương (太原郡王), Dương thị là Thái Nguyên Quận vương phi (太原郡王妃)[40].
Con trai Hàn Quốc phu nhân là Hạ Lan Mẫn Chi, vốn được cải họ Võ làm kế tự cho Võ Sĩ Hoạch, nên được kế tập tước Chu Quốc công (周國公) từ trước. Sau khi mẹ và em gái chết, Mẫn Chi ngày càng trở nên phóng túng, Võ hậu sinh lòng chán ghét. Mẫn Chi cư nhiên tư thông với con gái Dương Tư Kiệm (杨思俭) - vốn đang chờ tuyển làm Thái tử phi cho Thái tử Lý Hoằng. Biết tin, Võ hậu tức giận mà đem Mẫn Chi đày đi Lôi Châu, đổi sang họ cũ là họ Hạ Lan, tước đi tước hiệu Chu Quốc công. Con trai Võ Nguyên Sảng là Võ Thừa Tự (武承嗣) được triệu về kinh kế thừa tước Chu Quốc công thay thế Mẫn Chi[41].
Năm Hiện Khánh thứ 5 (660), Võ hậu cùng với Cao Tông đi tuần du vùng quê nhà là Bân Châu[42]. Bà tổ chức yến tiệc thật lớn, mời hàng xóm và thân tộc đến dự[33]. Cuối năm này, Đường Cao Tông phát chứng đau đầu, sức khỏe suy yếu nghiêm trọng, có lời đồn việc đó là do Võ hậu ngầm bỏ thuốc độc bộc phát chậm vào đồ ăn của ông.
Nhân việc này, Võ hậu can dự vào triều chính, quyết định nhiều việc trong triều, bắt đầu lấn át Cao Tông. Sử sách ghi nhận bà tinh thông văn sử, giải quyết công việc hiệu quả nhanh gọn; quyền lực của Cao Tông từ đây bị thu hẹp. Việc Võ hậu can thiệp vào công việc triều chính quá nhiều khiến Đường Cao Tông không hài lòng, dần dần giữa hai người xuất hiện mâu thuẫn. Bởi vì khi trước Võ hậu luôn nhu thuận, làm đúng ý niệm của Cao Tông, cho nên Cao Tông luôn muốn lập bà làm Hậu để chứng tỏ quyền hạn của mình. Đến đây khi Võ hậu bộc lộ rõ khả năng của mình, đối với Đường Cao Tông hẳn nhiên là cảm giác không hài lòng.
Năm Lân Đức nguyên niên (664), đạo sĩ Quách Hành Chân (郭行真) thường ra vào cung cấm làm tà thuật. Đường Cao Tông biết việc này là do Võ hậu chủ mưu nên rất tức giận, triệu đại thần Thị lang Thượng Quan Nghi (上官儀) vào cung. Nghi tâu rằng: "Hoàng hậu chuyên quyền, không giữ đạo làm vợ, cần phải phế đi". Cao Tông chấp thuận, lệnh cho Nghi tìm cơ hội mà ra tay. Có quan viên hầu trực đem chuyện này tố cáo với Võ hậu, bà bèn đến chỗ Cao Tông kêu khóc thảm thiết. Cao Tông không biết trả lời ra sao, bèn đổ hết mọi chuyện cho Thượng Quan Nghi. Tháng 12 năm đó, Võ hậu sai Hứa Kính Tông tố cáo Thượng Quan Nghi và Phế Thái tử Lương vương Lý Trung phản nghịch, bắt Nghi hạ ngục rồi ban rượu độc cho Lương vương Lý Trung. Sang đầu năm sau (665), mùa xuân, Thượng Quan Nghi và con là Thượng Quan Đình Chi (上官庭芝) bị chém đầu. Tuy nhiên, sau này Võ hậu trọng dụng cháu của Nghi là Thượng Quan Uyển Nhi, vời vào cung cho làm chức Nữ quan thân cận[43]. Từ đây mỗi khi Cao Tông thiết triều, Võ hậu đều ở bên cạnh cùng tham dự. Thời Đường hay xưng Thiên tử là Thánh nhân (聖人)[44], nên khi Võ hậu cũng cùng Cao Tông lâm triều, tự nhiên có tới 2 Thánh nhân. Do đó, lịch sử gọi giai đoạn này là Nhị Thánh lâm triều (二聖臨朝)[40][40][45][46].
Từ khi nắm chính quyền, triều đình Cao Tông dưới bàn tay của Võ hậu ngày càng hưng thịnh. Do đó, bà tích cực khuyên ông tiến hành khuếch trương thế lực cùng địa vị của hai người bằng cách tiến hành đại lễ Phong thiện (封禅) ở núi Thái Sơn. Cái gọi là "phong thiện", là một loại đại lễ cổ đại, xảy ra vào lúc thái bình thịnh thế, các Thiên tử vì muốn chứng tỏ quyền uy mà tiến hành các loạt lễ tế cáo Trời và Đất - hai nhân tố tối cao trong văn hóa Trung Hoa. Theo quy tắc, Thiên tử sẽ tế Sơ hiến (初献), còn Công khanh là Á hiến (亚献), nhưng Võ hậu vì thấy lý do Thiên tử biểu thị Hoàng Thiên, còn Hậu vị biểu thị Hậu Thổ, do đó muốn tự mình đảm nhận vị trí "Á hiến" sau Cao Tông. Ý kiến này của bà nhanh chóng được Cao Tông đồng thuận. Vì thế vào năm Lân Đức thứ 2 (665), tháng 10, Đường Cao Tông dẫn suất Văn võ bá quan, còn Võ hậu suất dẫn Mệnh phụ, đồng thời từ Đông Đô Lạc Dương xuất phát đến Thái Sơn. Đi cùng đến dự có các đặc sứ Đột Quyết, Nhật Bản, Ba Tư,... để chứng kiến đại lễ vinh hiển này của vợ chồng Đế-Hậu[47].
Năm Thượng Nguyên nguyên niên (674), tháng 8, Đường Cao Tông đổi xưng là Thiên Hoàng (天皇), gọi Võ hậu là Thiên Hậu (天后)[41]. Thiên Hậu dâng lên Thiên Hoàng một danh sách gồm 12 điều để trị quốc, được gọi là Kiến ngôn thập nhị sự (建言十二事), tất cả đều được Thiên Hoàng thông qua. Do tư liệu thiếu khuyết, không có bất kỳ thông tin nào về sự hiệu quả của 12 điều này. Nội dung đại khái:
Sang năm sau (675), Thiên Hoàng bị bệnh đau đầu rất nặng. Do ông không thể quản lý triều chính, liền cùng các đại thần thương nghị, thảo luận việc cho phép Thiên Hậu tiến hành nhiếp chính. Các đại thần là Tể tướng Hác Xử Tuấn (郝處俊) và đồng liêu Lý Nghĩa Diễm (李義琰) can ngăn, việc bèn thôi. Khi Thiên Hậu biết chuyện, liền triệu tập rất nhiều văn nhân học sĩ, soạn nhiều sách cổ như Liệt nữ truyện, Hiếu tử truyện (孝子傳),... rồi mật lệnh các Học giả này dâng sớ tham quyết triều đình, làm cho quyền lực Tể tướng bị ảnh hưởng. Đó gọi là Bắc Môn học sĩ (北門學士).
Thiên Hoàng sức khỏe ngày càng suy yếu, có ý nhường ngôi cho Thái tử Lý Hoằng, nhưng Thiên Hậu không đồng tình. Về phần mình, Thái tử không hài lòng việc Thiên Hậu nắm quyền, muốn đoạt lại quyền lực. Lúc nhỏ, thái tử chơi thân với hai con gái của Tiêu thục phi là Tuyên Thành công chúa và Nghĩa Dương công chúa; nay thấy họ bị Thiên Hậu giam lỏng trong Dịch Đình, liền xin Thiên Hoàng thả ra và cho lấy chồng. Thiên Hậu do vậy sinh oán.
Năm Thượng Nguyên thứ 2 (675), Thái tử cùng Thiên Hoàng và Thiên Hậu dự yến ở Hợp Bích cung thì đột ngột qua đời, chỉ mới 28 tuổi. Trong triều có lời đồn cái chết này là do Thiên Hậu hạ độc. Thiên Hoàng quá đau lòng vì cái chết của con trai, bèn truy tặng làm Hiếu Kính hoàng đế (孝敬皇帝). Sau đó, Thiên Hoàng ra chỉ Lập Hoàng lục tử là Ung vương Lý Hiền làm Thái tử[41]. Theo Tư trị thông giám, Ung vương Lý Hiền là con của Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận, tức chị ruột của Thiên Hậu. Khi Lý Hiền còn chưa biết đi thì Hàn Quốc phu nhân chết, nên Thiên Hậu nhận nuôi[41]. Thái tử Lý Hiền tuy là người hiền minh nhưng có nhiều việc làm trái khuấy nên không được lòng Thiên Hậu. Khi ấy, trong cung có lời đồn đãi Thái tử vốn do Hàn Quốc phu nhân sinh ra, Thái tử Hiền biết chuyện này trong lòng cảm thấy bất an, thái độ tỏ ra ngoài nét mặt. Thiên Hậu nghe vậy càng ghét hơn. Đạo sĩ Minh Sùng Nghiễm (明崇儼) được Thiên Hoàng và Thiên Hậu coi trọng, thường gièm pha với bà: "Thái tử không thể thừa kế được, Anh vương (Lý Triết) có dung mạo giống Thái Tông"; lại nói: "Tương vương (Lý Đán) về sau sẽ đại quý". Khi Lý Hiền lên ngôi Thái tử, Thiên Hậu cho soạn Thiếu Dương chánh phạm (少陽政範) và Hiếu tử truyện ban cho ông, lại nhiều lần quở trách ông ta vô cớ, nên Thái tử khi ấy trong lòng luôn rất bất an.
Năm Điều Lộ thứ 2 (680), Minh Sùng Nghiễm bị cuồng bạo đánh giết, Thiên Hậu nghi ngờ là do Thái tử Hiền làm, nên càng ghét hơn. Không lâu sau, các phe cảnh Tiết Nguyên Siêu (薛元超), Bùi Viêm (裴炎), Cao Trí Chu (高智周) với sự giật dây của Thiên Hậu đã tố cáo Thái tử Hiền mưu đồ bất chính. Thiên Hoàng sai điều tra, lục soát được trong phủ Thái tử nhiều đồ binh khí. Khi biết được, Thiên Hoàng không nỡ trị tội thế nhưng Thiên Hậu nói: "Là con dân mà mưu nghịch, thiên địa bất dung; nay đại nghĩa diệt thân, có thể nào xá được ?". Thiên Hậu liền hạ lệnh phế Thái tử, đày ra Ba Thục[48].
Sau đó, Thiên Hậu lập tức chọn lập Anh vương Lý Triết làm Thái tử thay thế, đổi tên thành Lý Hiển[49]. Khi còn là Chu vương, Lý Hiển kết hôn với Triệu thị, con gái Thường Lạc công chúa (常樂公主) - cô của Thiên Hoàng, đồng thời là con gái út của Đường Cao Tổ Lý Uyên, so với Lý Hiển thì Triệu thị là biểu cô. Thiên Hoàng rất tán thành cuộc hôn nhân này, song Thiên Hậu không ưa con gái nhà họ Triệu. Vào một dịp, Triệu thị do đắc tội với Thiên Hậu, liền bị giam lỏng trong Nội thị tỉnh, chỉ được đưa rau, thịt sống cho tự nấu ăn. Dần dần Triệu thị chết đói, Thiên Hậu bèn đày cha Triệu thị là Triệu Côi (趙瑰) cùng Thường Lạc công chúa ra đến Hoạt Châu[50][51].
Năm Vĩnh Thuần thứ 2 (683), Thiên Hoàng di giá Phụng Thiên cung (奉天宮) lâm bệnh. Biết mình không xong, ông bèn triệu Hoàng thái tử Lý Hiển từ Trường An về Lạc Dương, mệnh Thái tử giám quốc và giao cho đại thần Bùi Viêm cùng Lưu Cảnh Tiên (劉景先) và Quách Chính Nhất (郭正一) cùng phụ chính. Sau đó, ông chuyển về Lạc Dương, bệnh chuyển nặng hơn, Tể tướng cùng đại thần đều không thể tấn kiến.
Ngày 4 tháng 12 (tức ngày 27 tháng 12 dương lịch), Thiên Hoàng băng hà ở Trinh Quán điện (貞觀殿). Khi ông lâm chung, cho cận thần viết di chiếu: "Sau 7 ngày tạm quàn, Hoàng thái tử tức Hoàng đế vị trước Linh tiền. Về chế độ Viên lăng, nên chủ trương tiết kiệm. Quân quốc đại sự có việc không thể quyết định, liền nhờ Thiên Hậu quyết định" (七日而殯,皇太子即位于柩前。園陵制度,務從節儉。軍國大事有不決者,取天后處分。)[52][53]. Hoàng thái tử Lý Hiển nối ngôi, tức là Đường Trung Tông. Thiên Hậu trở thành Hoàng thái hậu, là Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Đường, và cũng là Thái hậu đầu tiên của triều đại này thực hiện Lâm triều xưng chế (臨朝稱制)[54]. Lúc mới lên ngôi, Trung Tông phải chịu tang, căn cứ theo di chiếu của Cao Tông, mọi việc trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán[55].
Năm Tự Thánh nguyên niên (684), tháng 2 (ÂL), Trung Tông muốn tạo đối trọng với Võ Thái hậu trong triều, nên phong nhạc phụ Vi Huyền Trinh làm Thị trung trông coi Môn hạ tỉnh, quyền uy quá lớn trong khi họ Vi không có tài cán. Tể tướng Bùi Viêm hết sức can ngăn nhưng Trung Tông không nghe, nói lại: "Ta đem cả thiên hạ cho Vi Huyền Trinh còn được, huống hồ một chức Thị trung lang sao?!". Bùi Viêm cố cãi lại không được, bèn mật cáo với Thái hậu. Ngày 26 tháng 2 (dương lịch), Thái hậu được Bùi Viêm, Lưu Y Chi, Trình Vụ Đĩnh, Trương Kiền Úc... đưa vào triều, tuyên chiếu phế truất Trung Tông làm Lư Lăng vương. Khi bị lôi xuống, Trung Tông cố hỏi: "Con có tội gì?!", Võ Thái hậu đanh thép đáp: "Nhà ngươi đem thiên hạ đưa cho Vi Huyền Trinh, còn không có tội ư?!", do đó Thái hậu bèn giam Trung Tông vào biệt cung. Thái hậu đưa Dự vương Lý Đán lên ngôi, tức là Đường Duệ Tông, cải niên hiệu thành Văn Minh.
Võ Thái hậu tên Lư Lăng vương là "Triết", mệnh lệnh đày ra Quân Châu rồi Phòng Châu, ở ngôi nhà mà Bộc vương Lý Thái từng ở sau khi bị Thái Tông giáng tước. Sau khi lập Duệ Tông, bà tiếp tục xưng Chế, tự mình chuyên chính như trước. Bà lập tức hạ chiếu nói Vi Huyền Trinh mưu nghịch, tước tất cả chức vị, giáng làm thứ dân và tống vào ngục, sau cũng bị lưu đày. Đường Duệ Tông Lý Đán khi ấy tuy ở ngôi vị, nhưng bị ép phải sống ở cung riêng, không được tham gia chính sự. Việc lớn nhỏ trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán. Bà còn cho phế con trai của Lư Lăng vương là Lý Trọng Chiếu làm Thứ nhân, cho lập con trai của Tân Đế là Lý Thành Khí kế thừa vị trí Trữ quân.
Ngày Giáp Tý tháng ấy (ÂL), Võ Thái hậu ngự ở Võ Thành điện (武成殿), Duệ Tông suất Vương công đến dâng tôn hiệu. Mấy hôm sau, sai Võ Thừa Tự công bố chế sách lập Hoàng đế mới. Từ lúc này, Thái hậu lên triều nghe chính ở Tử Thần điện (紫宸殿), không cần phải buông rèm, cứ ra thẳng ghế rồng mà nghe quần thần tấu sự[52]. Vừa yên vị, Võ Thái hậu mệnh Thái thường khanh, Kiểm giáo Dự vương phủ Vương Đức Chân làm Thị trung, Trung thư Thị lang Lưu Y Chi và Lễ bộ Thượng thư Võ Thừa Tự làm Đồng trung thư Môn hạ Bình chương sự. Lúc này Thái tử bị truất phế trước đây, Lý Hiền, đã bị ép phải uống rượu độc mà chết, Thái hậu liền đổ hết trách nhiệm cho Khâu Thần Tích, biếm làm Thứ sử Điệp Châu (nhưng không lâu sau thì phục chức), rồi truy tặng Lý Hiền là Ung vương.
Tháng 9 (ÂL) cùng năm, Thái hậu cải nguyên là Văn Minh, đổi Đông Đô Lạc Dương thành Thần Đô. Cung riêng của bà gọi là Thái Sơ cung (太初宮), ngự chế cờ xí đều dùng sắc vàng, lại cho cải Thượng thư tỉnh là Văn Xương đài, Tả hữu bộc xạ là Tả Hữu tướng; Lục tào thành Lục quan; Trung thư tỉnh đổi là Phụng các; Thị trung là Nạp ngôn; Trung thư lệnh là Nội sử lệnh; Ngự sử đài thành Tả túc chánh đài[56]. Từ năm đầu Thùy Củng (685), Võ Thái hậu bắt đầu dan díu với tên Hòa thượng giả danh, gọi là Tiết Hoài Nghĩa. Sau đó, Tiết Hoài Nghĩa dần được phong các chức vụ cao, cùng với Thái hậu làm nhơ bẩn hậu cung[52][57][58]. Tiết Hoài Nghĩa là người đất Hộ, nguyên danh là Phùng Tiểu Bảo, một lần được con gái nuôi của Thái hậu là Thiên Kim công chúa tiến cử, Thái hậu nhìn thấy liền rất ưa thích, bèn cho giả làm Tăng sư với tên Hoài Nghĩa, cho theo họ với Phò mã Tiết Thiệu. Được sủng ái, Tiết Hoài Nghĩa tự do ra vào cung cấm, thế lực rất lớn; đến cả Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư cũng tìm cách lấy lòng. Hoài Nghĩa tụ tập nhiều bọn côn đồ giả làm tăng, hoành hành bá đạo khắp nơi không coi ai ra gì. Có Hữu đài Ngự sử Phùng Tư Úc lên tiếng chỉ trích, liền bị bọn này đánh chết[52].
Năm Thùy Củng thứ 2 (686), mùa xuân, Võ Thái hậu hạ cảm thấy muốn xoa dịu tình hình, bèn hạ chiếu giao lại chính quyền do Duệ Tông. Thế nhưng Duệ Tông biết mẫu hậu không thực tâm, nên không dám chấp nhận, vẫn "cố gắng" khuyên mẹ mình tiếp tục tại vị. Võ Thái hậu nhân danh nghĩa đó mà tiếp tục lâm triều xưng chế[59].
Cuối năm Tự Thánh (684), Thứ sử Mi Châu, Anh Quốc công Lý Kính Nghiệp (gọi Từ Kính Nghiệp), cháu của Anh Trinh Vũ công Lý Tích, cùng em là Lý Kính Du và các thuộc tướng như Đường Chi Kỳ, Lạc Tân Vương, Đỗ Cầu... hợp nhau nổi dậy ở Dương Châu[60], lấy danh nghĩa khôi phục Đường Trung Tông.
Bọn họ loan tin trưởng sử Trần Kính Chi mưu phản để Kính Chi bị bắt vào ngục, mấy hôm sau thì Kính Nghiệp tiến hành nổi dậy, xưng niên hiệu cũ là Tự Thánh, xưng Khương phục phủ Thượng tướng, Dương Châu đại đô đốc; sai Lạc Tân Vương viết hịch kể tội Thái hậu gửi đi khắp nơi. Kính Nghiệp lại trá xưng là Thái tử Lý Hiền vẫn còn sống và đang ở chỗ mình. Thái hậu sai Lý Hiếu Dật làm Tương Châu đại tổng quản, dẫn 300.000 quân cùng Lý Tri Sĩ, Mã Kính Thần làm phó, thảo phạt Kính Nghiệp. Khi bà hỏi Bùi Viêm về kế sách đối với quân phản loạn, Viêm nói rằng Hoàng đế đã lớn tuổi, chỉ cần Thái hậu giao trả quyền chính thì tất vô sự. Thái hậu tức giận, giam Viêm vào ngục, đưa Kiến Vị Đạo, Lý Cảnh Kham lên thay; sau đó khép Bùi Viêm vào tội chết; lại lưu đày những người nói hộ cho Viêm[52]. Lý Kính Nghiệp đưa quân đánh sang Nhuận Châu. Thái hậu tước chức quan của ông ta, bắt trở về họ Từ. Lúc này quân của Lý Hiếu Dật không thu được thành quả nào, Hiếu Dật tỏ ra nao núng. Nhưng có tướng dưới quyền Ngụy Nguyên Trung khích lệ, Hiếu Dật mới quyết tâm hơn, cho quân đánh mạnh vào lực lượng của Từ Kính Nghiệp. Sau đó Kính Nghiệp đại bại, phải bỏ trốn. Tướng Vương Na Tướng làm phản giết anh em Kính Nghiệp, Lạc Tân Vương rồi ra hàng, cuộc nổi dậy bị dẹp tan.
Sau vụ của Từ Kính Nghiệp, Thái hậu sợ rằng các đại thần và tông thất oán mình chuyên quyền, nên tìm cách trừ khử bớt đi. Vào cùng năm ấy, Võ Thái hậu sai chế ra một cái hộp bằng đồng đặt trước triều đường, để cho những người hiến kế hay hoặc dự báo được tinh tượng, hoặc muốn tố cáo gian ác, hoặc muốn tiến cử nhân tài... mà ngại không dám nói thì cho bỏ thư vào đó. Ý của Thái hậu là để cho người ta bỏ thư tố cáo bí mật của người khác, nhất là các đại thần đang bị Thái hậu nghi ngờ để bà có cớ xử tội họ. Thường thì những người bị tố cáo, Thái hậu xử tội mà không cần tra xét gì cả.
Có người Hồ là Sách Nguyên Lễ đoán biết ý, nên dùng chuyện cáo mật mà được phong làm Du kích tướng quân. Nguyễn Lễ tính tình tàn nhẫn, thích dùng ngục hình, thường thì một người bị tố cáo thì lôi ra cái mà hắn gọi là "đồng đảng" hơn 10 người, dùng hình rất nặng khiến ai ai cũng bất an. Lại có bọn ngục lại là Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cũng thừa cơ mượn gió bẻ măng; Hưng được phong Thu quan thượng thư còn Tuấn Thần làm tới Ngự sử trung thừa. Bọn này hè nhau mượn việc cáo mật mà vu oan, hãm hại người khác, làm triều chính mấy phen điên đảo; lại còn chế ra nhiều cực hình tàn khốc để hành hạ phạm nhân: định bách mạch, đột địa hống, tử trư sầu, cầu phá gia, phụng hoàng sái sí, lư câu bạt quyệt, ngọc nữ đăng thê. Mỗi lần có đại xá, Tuấn Thần lại ra giết hết người phạm tội nặng rồi mới ban lệnh xá, thế mà Thái hậu vẫn cho là trung thành và càng tín nhiệm[61]. Đại thần Lưu Y Chi lúc này được phong làm Tể tướng. Vào năm Thùy Củng thứ 3 (687), ông ta dâng biểu đề nghị Thái hậu giao trả chính quyền. Thái hậu rất tức giận, lúc đó lại có tin đồn là Y Chi tư thông với thiếp của Hứa Kính Tông, thế là Võ Thái hậu sai người bắt ông ta vào ngục. Đường Duệ Tông nghe vậy muốn cứu Tể tướng, nhưng Y Chi cho rằng hành động của Duệ Tông sẽ càng làm mình chết chóng. Quả nhiên ông ta liền bị Thái hậu xử tử[57].
Dần dần, Võ Thái hậu đã lộ rõ có ý soán ngôi, nên tìm cách loại trừ một số tôn thất nhà Đường mang họ Lý, như Hàn vương Lý Nguyên Gia, Hoắc vương Lý Nguyên Quỹ, Lỗ vương Lý Linh Quỳ, Việt vương Lý Trinh, Giang Đô vương Lý Tự, Phạm Dương vương Lý Ái, Đông Hoàn công Lý Dung và Lang Tà vương Lý Xung - con Việt vương. Việt vương Lý Trinh cũng biết ý đó, tỏ ra bất an và muốn nổi dậy. Mùa thu năm Thùy Củng thứ 4 (688), tháng 8 (ÂL), Lang Tà vương Lý Xung triệu tập quân các nơi cùng đánh vào Thần Đô Lạc Dương, Thái hậu sai Khâu Thần Tích dẫn quân thảo phạt, ngay sau đó thì Việt vương Lý Trinh khởi binh từ Dự Châu[62], còn Lý Xung từ Bác Châu[63]. Tuy nhiên các lộ chư hầu khác vẫn chưa kịp khởi binh, do đó lực lượng của ông bị đè bẹp nhanh chóng. Cuối cùng Lý Xung bị tên giữ thành Bác Châu giết chết, hơn 1000 quan lại cũng bị liên can và bị Khâu Thần Tích giết chết, Lý Trinh cũng bị đánh bại liên tục và phải tự tử trong thành. Thái hậu hạ chiếu đổi họ của cha con Việt vương thành họ Hủy, rồi còn nhân đó bắt tội Hàn vương, Lỗ vương, Thường Lạc Công chúa, Hoàng công Lý Soạn, bắt họ tự sát rồi đổi tất cả sang họ Hủy hết thảy[57]. Phò mã Tiết Thiệu cùng hai anh là Tiết Nghĩ, Tiết Tự cũng bị liên can, Nghĩ và Tự bị giết, Thiệu bị đánh 100 trượng rồi cũng chết trong ngục.
Năm Quang Trạch nguyên niên (684), tháng 9, người trong họ Võ Thái hậu là Võ Thừa Tự dâng biểu xin truy phong cho tổ tiên họ Võ lên tước Vương, lập nên Võ thị Thất miếu (武氏七廟), có ý khuếch trương dòng dõi nhà họ Võ.
Thái hậu nghe thế mà bằng lòng, thế nhưng truy phong tước Vương là thuộc điều cấm kị của rất nhiều triều đại, trong đó có nhà Đường. Tể thần là Bùi Viêm lại dẫn câu chuyện Lã hậu thời nhà Hán khi trước ra can ngăn, nói rằng: "Thái hậu mẫu lâm thiên hạ, nên chí công vô tư mới phải. Ngài quên cái bại của họ Lã khi xưa chăng?!". Hoàng thái hậu không nghe, nói lại: "Lã hậu đó là cậy quyền phong cho người sống. Nay ta truy phong người chết, có hại gì?"; bèn truy phong tổ 6 đời là Võ Khắc Kỷ làm Lỗ Tĩnh công; tổ 5 đời là Võ Cư Thường làm Thái úy, Bắc Bình Cung Túc vương; tằng tổ Võ Kiệm là Thái úy, Kim Thành Nghĩa Khang vương; tổ phụ Võ Hoa là Thái uý, Thái Nguyên An Thành vương. Còn thân phụ Võ Sĩ Hoạch làm Thái sư, Ngụy Định vương, không lâu sau lại cho đổi thành Ngụy Trung Hiếu vương; còn tất cả các nữ quyến, đều truy phong làm Phi; cho người xây Từ đường Ngũ đại tại quê nhà Văn Thủy[64].
Năm Vĩnh Xương nguyên niên (689), mùa xuân, Võ Thái hậu tôn Ngụy Trung Hiếu vương thành Chu Trung Hiếu Thái hoàng, vợ là Trung Hiếu Thái hậu, thiết mộ gọi là Chương Đức lăng (章德陵). Lỗ công là Thái Nguyên Tĩnh vương; Bắc Bình vương là Triệu Cung Túc vương, Kim Thành Nghĩa Khang vương là Ngụy Nghĩa Khang vương; Thái Nguyên vương là Chu An Thành vương[65].
Từ năm Thùy Củng thứ 4 (688), Võ Thái hậu bắt đầu xây Minh đường (明堂). Vào lúc này, quyền lực của Võ Thái hậu đã lớn, khiến nhiều kẻ xu nịnh bắt đầu tạo những thứ gọi là "điềm lành", hòng mua chuộc và lấy lòng bà. Người cháu trong họ là Văn Xương Tả tướng Võ Thừa Tự đã cho làm giả bảo thạch, trên có khắc 8 chữ "Thánh mẫu lâm nhân, Vĩnh xương Đế nghiệp" (聖母臨人,永昌帝業。), có ý đề cao việc bà đích thân quản lý chính sự thay Duệ Tông.
Đối với những thứ này, Võ Thái hậu không ngần ngại tỏ ra cực kỳ thích thú, đặt tên viên bảo thạch là Bảo đồ (寶圖), sau đó còn tự xưng tôn hiệu Thánh mẫu Thần hoàng (聖母神皇), đại xá thiên hạ, sau lại nghĩ ra tên khác, cho bảo thạch thành Thiên thụ Thánh đồ (天授聖圖). Cũng trong thời gian này là sự kiện nổi loạn của hai cha con Lang Tà vương. Sau khi đánh bại phe phái chống đối mấu chốt này, sự "thần thánh" của Võ Thái hậu ngày càng lớn và không còn ai đủ sức có thể ngăn chặn con đường tự lập của Võ Thái hậu nữa. Cùng năm ấy, Minh đường hoàn thành, ấy là Vạn Tượng Thần Cung (萬象神宮) nổi tiếng, cao 394 xích, gồm 3 tầng. Liền ngay đó, bà cho cải niên hiệu thành Vĩnh Xương, theo tên Thánh đồ của bà, nhưng được hết năm thì lại cho đổi thành Tái Sơ[66].
Năm Tái Sơ nguyên niên (690), Võ Thái hậu lâm hạnh Minh đường, đại xá thiên hạ. Trong lần này, bà cho ban chữ Chiếu làm tên húy kị của mình. Chữ Chiếu được đề cập có chữ Hán là "曌", với hình Mặt trời (日), Mặt trăng (月) trên không (空), để tỏ quyền uy tối thượng. Chữ Chiếu này cùng 11 chữ khác về sau được gọi là Võ hậu tân tự.
Mùa hạ năm đó, Võ Thừa Tự bàn với Chu Hưng tố cáo các Trạch vương Lý Thượng Kim và Hứa vương Lý Tố Tiết có mưu phản, Thái hậu sai bắt trị tội, thắt cổ giết Tố Tiết; Thượng Kim cũng phải tự tử, lúc này hoàng thất họ Lý đã không còn ai có thể đe dọa Võ hậu nữa. Lại nói từ khi Tiết Thiệu bị giết, Thái Bình công chúa đi khắp nơi tìm kiếm nam sủng. Võ Thái hậu sợ mang tiếng, nên đem Công chúa gả cho cháu họ của mình là Võ Du Kỵ. Không lâu sau, bà giết chết các đại thần gồm Bùi Cư Đạo và Trương Hành Liêm, giết hai con của Chương Hoài Thái tử Lý Hiền và Nam An vương Lý Dĩnh. Tông thất nhà Đường bị diệt gần hết, số còn nhỏ tuổi cũng bị lưu đày đến Lĩnh Nam. Năm đó, sư Pháp Minh dâng bốn quyển Đại vân kinh (大雲經) ca ngợi Thái hậu là Phật Di Lặc xuống trần, là chủ của thiên hạ. Thái hậu sai in rồi phát ra khắp nơi, đề cao Phật giáo trên Đạo giáo.
Tháng 9 (ÂL) năm ấy, Thị ngự sử Phó Du Nghệ cùng hơn 900 đại thần đến Thần Đô, dâng thư xin Võ Thái hậu xưng làm Hoàng đế, đổi quốc hiệu thành Chu (周), sửa quốc tính thành họ Võ. Võ Thái hậu khước từ. Thấy vậy, đủ loại quan lại, tông thích, thậm chí là nhiều Tù trưởng các Di tộc đều lần lượt xin dâng biểu mời Võ Thái hậu đăng vị. Trước tình thế ấy, cả Đường Duệ Tông cũng đành phải xin bà cho đổi thành họ Võ, quan viên trong triều cũng tâu thỉnh, nói thấy Phượng hoàng bay vào Thượng Dương cung (上陽宮), tắc là điềm lành. Những điều này càng lúc càng thúc đẩy, khiến Võ Thái hậu quang minh chính đại soán vị.
Thế rồi vào ngày 9 tháng 9 (ÂL) năm ấy, Võ Thái hậu chính thức lên ngôi ở Tắc Thiên môn (則天門), đổi nhà Đường thành Chu, đổi niên hiệu làm Thiên Thụ (天授). Ngày 12 (ÂL) tháng ấy, quần thần tôn hiệu là Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝). Vừa lên ngôi, Võ Hoàng cho giáng Duệ Tông làm Hoàng tự (皇嗣), Hoàng thái tử Lý Thành Khí giáng làm Hoàng tôn (皇孫), đều cho đổi làm họ Võ. Sau đó, Võ Hoàng còn phong cho Văn Xương tả tướng Võ Thừa Tự là Ngụy vương; Thiên Quan Thượng thư Võ Tam Tư làm Lương vương, lại gia phong các cháu trong họ cộng 10 người làm Quận vương, cô dì phong là Trưởng công chúa[67]. Con gái của Đường Cao Tổ Lý Uyên là Thiên Kim công chúa, nhanh chóng lấy lòng Võ Hoàng, tự nhận làm con, tự đổi thành họ Võ thị, do đó Công chúa được phong làm Diên An Đại Trưởng công chúa[68].
Võ Hoàng chính thức cho lập miếu tổ tiên họ Võ ở Thần Đô, tiến hành truy tặng:
Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi Đế vị, Võ Tắc Thiên quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, Võ Hoàng lập ra tuần tra mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên, với cái tên khét tiếng Lai Tuấn Thần, Chu Hưng, nhưng đồng thời cũng có những hiền tài như Địch Nhân Kiệt.
Ở biên cương, nhà Chu đang có xung đột với Thổ Phiên và Đột Quyết, thực tế những vấn đề này đã tồn tại từ trước ở thời Đường Cao Tông, khi Võ Hoàng lên ngôi, những vấn đề biên giới tiếp tục gia tăng.
Năm Như Ý nguyên niên (692), tháng 2, bộ lạc Đảng Hạng của Thổ Phồn quy phục nhà Chu. Võ Hoàng cả mừng, đem tộc thuộc đều phân trí riêng ra khắp 10 Châu trong cả nước. Tháng 5 cùng năm, thủ lĩnh Hạt Tô (曷苏) cũng dẫn tộc nhân quy phụ nhà Chu, Võ Hoàng cho Trương Huyền Ngô (张玄遇) xuất tinh binh 20.000 quân ra nghênh đón. Nhưng Hạt Tô sau đó bị người Thổ Phồn bắt về, lại gặp đúng lúc một tộc người Khương dẫn 8000 người quy phụ, Trương Huyền Ngô mới đem an trí Xuyên Châu[69]. Cùng năm ấy, tháng 9, đại tướng Vương Hiếu Kiệt (王孝杰) và A Sử Na Trung (阿史那忠) xuất chinh Tây Bắc, đại phá được Thổ Phồn, thu phục 4 địa phương và cho đổi thành An Tây Tứ trấn (安西四镇)[70]. Cục diện phía Tây tạm yên, thẳng đến đời Đường Huyền Tông.
Mùa xuân năm Trường Thọ thứ 3 (694), tháng giêng, Thất Vi tạo phản, Võ Hoàng phái Đại tướng quân Lý Đa Tộ bình định được. Tháng 2, quân Chu do Vương Hiếu Kiệt công phá liên minh hơn 300.000 người giữa Bột Phác Luận Tán Nhuận của Thổ Phồn và Đồi Tử Khả hãn của Đột Quyết, lại thắng lợi[71]. Tháng 8, Lương vương Võ Tam Tư lĩnh suất "Tứ di Tù trưởng" thỉnh lấy đồng thiết đúc Thiên trụ (天枢), đặt ngoài Đoan Môn, để biểu thị công đức của Võ Hoàng[72]. Triều đình gom hết đồ đồng trong nước, sau khi hoàn thành thì liền cho khắc tên của bách quan cùng vua của các chư hầu. Sau đó, chính tay Võ Hoàng đích thân đề cái tên Đại Chu vạn quốc tụng đức Thiên trụ (大周萬國頌德天樞), ngụ ý Võ Chu triều là trung tâm của thiên hạ, thống lĩnh vạn quốc[73].
Năm Chứng Thánh nguyên niên (695), tháng giêng, tôn hiệu của bà được đổi thành Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (慈氏越古金輪聖神皇帝). Ngày 16 (ÂL) tháng ấy, Tiết Hoài Nghĩa vì thất sủng mà đốt Thiên đàng cùng Minh đường (là Vạn Tượng Thần Cung), chạy rụi trọn đêm, khiến Võ Hoàng chỉ có thể xây lại Minh đường, còn chỗ Thiên đàng sửa thành chùa Phật Quang[74]. Cùng tháng ấy, Võ Hoàng phái Vương Hiếu Kiệt đánh vào Đột Quyết, khiến vào tháng 10 cùng năm đó, Khả hãn là Mặc Xuyết (默啜) phải hàng và quy phụ Đại Chu. Võ Hoàng mừng, làm lễ phong thiện ở Tung Sơn, đại xá thiên hạ, đổi tôn xưng thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (天冊越古金輪聖神皇帝), cải niên hiệu mới làm Thiên Sách Vạn Tuế, sau lại đổi thành Vạn Tuế Đăng Phong. Cùng năm đó, quân Chu do Vương Hiếu Kiệt và Lâu Sư Đức chỉ huy giao chiến với hai tướng Thổ Phiên là Luận Khâm Lăng và Luận Tán Bà ở núi Tố La Hãn và đại bại, bà bèn giáng chức Sư Đức và Hiếu Kiệt[58].
Năm Vạn Tuế Đăng Phong nguyên niên (696), tháng 3, Võ Hoàng cho trùng kiến và xây dựng thêm Minh đường, thiết đặt Thông Thiên cung (通天宮). Mật độ xây dựng của Đại Chu vào lúc này lên đến đỉnh điểm, nhằm biểu thị uy quyền mà Võ Hoàng khao khát. Liền sau đó, bà cho đổi niên hiệu mới Vạn Tuế Thông Thiên. Dù đang ở đỉnh cao quyền lực, Đại Chu của Võ Hoàng vào ngay lúc ấy gặp một chiến loạn lớn ở phương Bắc. Khi ấy, Tùng Mạc Đô đốc Lý Tận Trung và anh vợ là Thành Châu Thứ sử Tôn Vạn Vinh vốn là người Khiết Đan, oán hận vì sự ngược đãi của nhà Đường đối với Khiết Đan từ trước, nên khi võ Hoàng lên ngôi đã chính thức nổi loạn, công hãm Doanh Châu[75], giết Thứ sử là Triệu Văn Hối. Lý Tận Trung tự xưng là Vô Thượng Khả hãn (無上可汗). Võ Hoàng cử quân đến đàn áp, đổi gọi Lý Tận Trung làm Tận Diệt (盡滅), Tôn Vạn Vinh là Vạn Trảm (萬斬). Tuy nhiên lực lượng nhà Chu bị Khiết Đan đánh bại vào mùa thu cùng năm, liên tiếp các tướng, trong đó có Vương Hiếu Kiệt được phục chức, đều chết trận. Dưới tình thế ấy, Khã hãn Đột Quyết là Mặc Xuyết trong lúc này lại đem quân đánh Lương Châu, bắt đô đốc Hứa Khâm Minh. Tháng 10 (ÂL) cùng năm, Lý Tận Trung chết, Tôn Vạn Vinh lên thay để tiếp tục công cuộc chống đối nhà Chu. Mặc Xuyết Khả hãn lúc này thân thiện với nhà Chu được tin liền dẫn quân tấn công Khiết Đan, bắt được thê tử Tận Trung và Tôn Vinh. Võ Hoàng bằng lòng, ban cho Mặc Xuyết nhiều vàng, lụa, sắt cùng công cụ cày cấy. Về sau Tôn Vạn Vinh phát triển thế lực, lại tiếp tục chống Chu. Mãi đến mùa hạ năm Vạn Tuế Thông Thiên thứ 2 (697), Mặc Xuyết Khả hãn lại đem quân tấn công Khiết Đan, giết Tôn Vạn Vinh thì, hình Khiết Đan mới tạm yên[24]. Sau đó, Mặc Xuyết Khả hãn đòi hòa thân với nhà Chu. Võ Hoàng cho cháu mình là Võ Diên Tú thành hôn với Công chúa Đột Quyết, Mặc Xuyết không chịu và bắt giam Võ Diên Tú, sau đó gây hấn với Chu, tiến đánh đến tận Triệu Châu[76] rồi mới rút lui.
Năm Thánh Lịch thứ 2 (699), Quốc chủ Thổ Phồn giết chết Luận Khâm Lăng, con Khâm Lăng là Cung Nhân cùng Luận Tán Bà đầu hàng Chu. Kể từ lúc đó, Thổ Phồn lâm vào tình cảnh rối ren, xung đột và trong một thời gian không còn gây hấn với nhà Chu (sau là Đường) như trước nữa.
Không bao lâu sau khi chiếm ngôi, Võ Hoàng cho xây chùa Đại Vân ở Trường An và Lạc Dương, đồng thời phong cho 9 nhà sư lên tước Công. Có thể nói, vào thời Võ Hoàng lâm triều trị quốc, Phật giáo luôn chiếm địa vị độc tôn trong hệ thống tư tưởng ở Trung Quốc. Về tổ tiên của mình, bà cho đem bài vị tổ tiên trong vòng 7 đời vào thờ ở Thái miếu, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục cúng bái 3 vị Hoàng đế họ Lý là Đường Cao Tổ, Đường Thái Tông và Đường Cao Tông của nhà Đường[57].
Mặc dù Duệ Tông được lập làm Hoàng tự, nhưng thế lực của Thân vương khác là Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư cũng rất lớn mạnh. Năm Thiên Thụ thứ 2 (691), các đại thần Trương Gia Phúc, Vương Khánh Chi muốn lấy lòng Võ Hoàng, nên dâng thư xin bà lập Võ Thừa Tự làm Thái tử, vì người họ Võ thì nên truyền ngôi cho người họ Võ. Bà ban đầu có vẻ bằng lòng. Tháng 7 (ÂL) cùng năm ấy, các Tể tướng Sầm Trường Sai, Cách Phụ Nguyên và Tư lễ khanh kiêm Phán Nạp ngôn sự Âu Dương Thông lên tiếng phản đối một cách gay gắt. Võ Thừa Tự ghét lắm, bày mưu với Lai Tuấn Thần vu hãm cả ba cùng các quan viên ủng hộ 3 người, đến tháng 10 cùng năm thì toàn bộ đều bị giam và giết hại[57][77]. Đại thần Lý Chiêu Đức cũng vì bất bình với Võ Thừa Tự, liền sau đó bị lưu đày và bị giết, rất có thể do Võ Thừa Tự hãm hại[78]. Tuy nhiên Võ Hoàng vẫn chưa lập Võ Thừa Tự làm thái tử, chỉ cho Thừa Tự có thể tự do vào cung thỉnh an. Về sau do Vương Khánh Chi vào cung quá nhiều và tỏ ra vô lễ, bà bàn với tướng Lý Hiếu Dật trừng phạt hắn ta. Lý Du Đạo nhân cơ hội đó, cho đánh chết Vương Khánh Chi và khuyên bà giữ lại ngôi kế vị cho họ Lý, vì nếu họ Võ làm Hoàng đế thì 3 vị Hoàng đế nhà Đường sẽ không còn được thờ ở Thái miếu[57]. Võ Hoàng bằng lòng, sau đó bà còn hạ lệnh tước quyền tể tướng của Võ Thừa Tự, chỉ trao cho các chức vụ trên danh nghĩa, không nắm thực quyền[58].
Lúc này thế lực của bọn Lai Tuấn Thần ngày càng lớn mạnh, ngoi lên chức Tả Thái trung thừa. Mùa xuân năm Trường Thọ nguyên niên (692), Tuấn Thần tố cáo 3 vị Bình chương sự là Nhậm Tri Giả, Địch Nhân Kiệt và Bùi Hành Bổn cùng bọn đại thần Bùi Tuyên Lễ, Lư Hiến, Ngụy Nguyên Trung, Lý Tự Chân mưu phản. Bảy người này đều bị tống vào ngục. Địch Nhân Kiệt ở trong ngục bí mật viết sớ kêu oan, rồi tìm cơ hội gửi cho con ông ta là Địch Quang Viễn để trình lên trên cho Võ Hoàng xem xét. Cuối cùng, 7 vị đại thần thoát chết nhưng bị lưu đày. Về sau các Tể tướng Lý Du Đạo, Chu Kính Tắc, Chu Củ ra sức kiềm chế bọn Tuấn Thần nên thế lực không còn được như trước[58].
Năm Trường Thọ thứ 2 (693), người phụ nữ được Võ Tắc Thiên sủng ái là Vi Đoàn Nhi oán hận Hoàng tự Võ Đán vì dụ dỗ không thành, thường gièm pha trước mặt Võ Hoàng. Sau đó Vi thị vu cáo vợ Hoàng tự là Lưu thị cùng người thiếp của ông, Đậu thị, lập đàn bùa phép mưu hại Võ Hoàng. Do đó Võ Hoàng nhân lúc hai người vào thỉnh an, đã bí mật giết chết. Hoàng tự rất lo sợ, mình sẽ bị liên lụy, do đó ông không dám khóc thương cho hai người, sinh hoạt vẫn tiến hành như bình thường. Tuy nhiên sau đó Đoàn Nhi lại tiếp tục tìm cớ hãm hại Hoàng tự, Võ Hoàng không còn tin ả nữa, sai giết đi. Cũng trong lúc đó, mẹ của Đậu Đức phi là Bàng thị bị người đến tố cáo, Bàng thị bị khép tội chết, cho giảm một bậc. Có lời đồn các đại thần Bùi Phỉ Cung, Phạm Nhân Tiên bí mật gặp Hoàng tự, Võ Hoàng liền cho xử tử cả hai. Lai Tuấn Thần còn tố cáo Hoàng tự mưu phản, Võ Hoàng liền tin mà tức giận, sai giam lỏng ông trong phủ, không cho đại thần gặp mặt, đồng thời phế các con ông từ Thân vương làm Quận vương. Những người bị nghi đồng mưu đều bị Lai Tuấn Thần tra tấn dã man. Bấy giờ có An Kim Tàng tự mổ bụng của mình để giải oan cho Hoàng tự. Bà nghe tin cảm động, cho ngự y tới chữa trị Kim Tàng và xá miễn cho Hoàng tự khỏi phải mang tội nữa[58][79].
Đối với Võ Hoàng, cháu trai Võ Thừa Tự thực sự được tín nhiệm, từ khi Võ Hoàng lên ngôi đến khi Thừa Tự chết, các tôn hiệu dành cho bà đều do Thừa Tự đích thân vận động. Cũng những dịp này, Võ Hoàng rất cao hứng mà nhiều lần đại xá. Trong sự kiện chọn lựa lập Lý hay lập Võ kế thừa, Võ Thừa Tự cũng nằm trong danh tuyển.
Nhưng vì vấn đề của Lý Chiêu Đức và Địch Nhân Kiệt, Võ Hoàng do dự và quyết định hủy bỏ tư cách của Võ Thừa Tự, hạn chế đi quyền lực đáng kể của ông ta trong triều. Sau khi loại Võ Thừa Tự, thế lực của Lý Du Đạo trở nên lớn mạnh, nên Võ Hoàng có phần e ngại, bèn bãi chức ông ta. Mùa thu năm Diên Tải (694), Lai Tuấn Thần từng bị biếm làm Tham quân Đồng Châu, Vương Hoằng Nghĩa bị đày ra Quỳnh Châu rồi bị giết. Nhưng không lâu sau đó, Lai Tuấn Thần và Lý Du Đạo lại được Võ Hoàng bổ dụng. Năm Thần Công (697), Tuấn Thần lập mưu tố cáo Du Đạo làm phản, nhân cơ hội đó sẽ tìm cách hãm hại hai Hoàng tử (Lý Triết và Lý Đán) cùng Thái Bình công chúa, công chúa bèn liên kết với người họ Lý và họ Võ, tố cáo ngược lại Tuấn Thần. Cuối cùng, Võ Hoàng cho giết cả Lai Tuấn Thần và Lý Du Đạo. Từ đó thế lực của Lai Tuấn Thần từng tác quái nhiều năm trong triều đã bị đánh đổ[24].
Năm Thánh Lịch nguyên niên (698), hai người cháu dòng họ Võ của bà là Võ Thừa Tự và Võ Tam Tư muốn giành ngôi Thái tử, kết bè kết cánh chống lại nhau và cùng âm mưu lật đổ Hoàng tự Lý Đán. Với vấn đề này, Võ Hoàng luôn cảm thấy bất an, không biết giải quyết ra sao. Đại thần Địch Nhân Kiệt dâng sớ nói rằng Cao Tông lúc chết đem hai con phó thác cho bà, nay dù Võ Hoàng lên ngôi nếu như muốn đem thiên hạ giao cho người cùng họ là trái ý trời, mà không có tiền lệ gì mà cô nhường ngôi cho cháu. Nếu lập con thì sau này bà còn được vào Thái miếu, nếu lập cháu thì về sau không biết địa vị của bà sẽ ở đâu. Bà nghe theo. Sau đó Nhân Kiệt lại khuyên bà triệu Lư Lăng vương Lý Triết về kinh, được Vương Phương Khánh và Vương Cập Thiện ủng hộ theo. Võ Hoàng cũng bắt đầu suy nghĩ việc này[80]. Lúc đó U Châu tướng Tôn Vạn Vinh cũng muốn tôn lập Lý Triết, Võ Hoàng cuối cùng xiêu lòng. Tháng 4 (ÂL) năm ấy, Võ Hoàng ra lệnh rằng Lư Lăng vương Lý Triết trong người có bệnh, đặc cách cho về kinh, lại cho phép Thê tử, con cái đi theo. Không lâu sau ông về tới Trường An[24]. Tháng 10 (ÂL) cùng năm, Hoàng tự Võ Đán dâng sớ xin nhường ngôi kế vị cho Lý Triết. Bà bằng lòng, đổi Hoàng tự là Tương vương và phong Lý Triết làm Hoàng thái tử, đổi tên là Hiển như cũ, nhưng phải đổi sang họ Võ[24]. Điều này khiến Võ Thừa Tự uất ức thống hận và qua đời không lâu sau đó.
Sau khi Võ Hiển được làm Thái tử, Võ Hoàng do sợ rằng sau khi mình qua đời thì hai nhà Lý, Võ sẽ không dung nhau, nên hạ lệnh bắt Võ Hiển, Võ Đán, Thái Bình công chúa và phò mã Võ Du Kỵ phải thề độc rằng không làm hại họ Võ[24]. Lúc này, Võ Hoàng dần dần sa vào hưởng lạc. Từ sau khi Tiết Hoài Nghĩa thất sủng, Thái Bình công chúa còn tiến cử Trương Xương Tông có tài thổi sáo, rất đẹp trai lại có tài trong phòng the khiến Võ Hoàng rất vui. Xương Tông lại tiến cử anh mình là Trương Dịch Chi vào hầu hạ, không lâu sau hai người được phong lên tới tước Công[24][81]. Không những thế, họ Trương còn liều lĩnh cặp ngay với một nha đầu thân cận của Võ Hoàng. Vào một ngày bị Võ Hoàng bắt gặp, bà đã rút gươm và chém sượt qua đầu. Tuy nhiên sau đó chuyện này đã được giải quyết êm vì Thái Bình công chúa có ý kiến rằng: "Không nên làm to chuyện, làm trò cười cho thiên hạ". Lúc này bà tuổi cao, anh em họ Trương dần tìm cách can dự vào triều chính. Điều này khiến các con của Võ Hiển là Thiệu vương Lý Trọng Nhuận, Vĩnh Thái công chúa Lý Tiên Huệ, Phò mã Võ Diên Cơ (con trai Võ Thừa Tự) đều rất bất bình. Anh em họ Trương nhân đó gièm pha, Võ Hoàng phái người ban chết[81][82][83][84].
Năm Trường An thứ 3 (703), anh em họ Trương oán giận tể tướng Ngụy Nguyên Trung vì Nguyên Trung không coi trọng bọn Trương Xương Nghi và Trương Xương Kỳ, anh em họ của Dịch Chi. Hai người này cũng lo sợ sau khi bà chết đi thì Nguyên Trung sẽ tìm cách hại mình, nên đã cáo buộc Nguyên Trung cùng Cao Tiển, thân cận của Thái Bình công chúa, ngày đêm mong cho bà chóng chết. Anh em họ Trương còn thuyết phục Trương Thuyết ra làm chứng, nhưng Trương Thuyết nói hết âm mưu của hai tên đó trước mặt Võ Hoàng. Nhưng rốt cục, Võ Hoàng vì mải mê nam sủng nên vẫn lưu đày Ngụy Nguyên Trung, Cao Tiển và Trương Thuyết. Mùa thu năm thứ 4 (704), nhiều quan lại lên tiếng cáo buộc Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông và anh em họ là Đồng Hưu, Xương Kỳ nhận hối lộ; Võ Hoàng bèn giáng chức Đồng Hưu và Xương Kì nhưng lại giật dây cho Tể tướng Dương Tái Tư không được động tới hai nam sủng của mình, nên anh em họ Trương được vô sự.
Năm Trường An thứ 4 (704), tháng 12 (ÂL), Võ Hoàng lâm bệnh ở Trường Sinh viện (長生院). Các đại thần đều không được gặp mặt, chỉ có anh em họ Trương được vào hầu mà thôi. Nhiều đại thần e ngại bọn họ Trương sẽ tìm cách chiếm ngôi, nên lũ lượt dâng sớ tố cáo chúng về tội phản quốc. Sau khi bệnh tình của bà có thuyên giảm, Tể tướng Thôi Huyền Vĩ đề nghị chỉ nên cho Thái tử Võ Hiển và Tương vương Võ Đán được vào hầu mà thôi, nhưng bà không theo. Về sau còn có Hoàn Ngạn Phạm và Tống Cảnh dâng sớ cáo buộc, bà cho Tống Cảnh điều tra việc đó, nhưng không được bao lâu lại hạ lệnh xá miễn cho bọn họ Trương[85]. Sang mùa xuân năm sau (705), cải niên hiệu là Thần Long (神龍).
Sau khi cải nguyên không lâu, Võ Hoàng lại lâm bệnh, thường xuyên ở Nghênh Tiên cung (迎仙宮) và không hỏi đến chính sự. Anh em Dịch Chi và Xương Tông tiếp tục trông giữ mọi việc, lúc này cả hai lần lượt được ghi đảm nhiệm Lân đài giám (麟台監) cùng Xuân Quan Thị lang (春官侍郎). Các đại thần là Phụng Các Thị lang Trương Giản Chi, Loan Đài Thị lang Thôi Huyền Vĩ, Trung Đài Hữu thừa Kính Huy, Tư Hình Thiếu khanh Hoàn Ngạn Phạm, Tương vương phủ Tư mã Viên Thứ Kỷ, Hữu Vũ Lâm vệ Tướng quân Lý Đa Tộ và Tả Tán kỵ Thị lang Lý Trạm muốn diệt trừ hai tên gian thần này, khôi phục lại nhà Đường. Đấy gọi là Thần Long cách mệnh (神龍革命) hay Chính biến Thần Long.
Để dễ bề hành động, Giản Chi tiến Hoàn Ngạn Phạm và Kính Huy đều là Tả/ Hữu Tướng quân của Vũ Lâm vệ, nắm lấy binh quyền. Dịch Chi sinh nghi, để cho đồng đảng là Võ Du Nghi làm Hữu Vũ Lâm Đại tướng quân. Việc vẫn không dừng lại, Giản Chi và Kính Huy bèn đến Đông Cung, nơi Thái tử Võ Hiển cư trú để bàn định kế sách, đều thông qua. Ngày Quý Mão, tức ngày 22 tháng 1 (nhằm ngày 20 tháng 2 dương lịch), Trương Giản Chi, Hoàng Ngạn Phạm cùng Tả Uy vệ Tướng quân Tiết Tư Hành, cùng tất cả quan lại ủng hộ (hơn 10 người) dẫn hơn 500 quân Thiết kỵ tiến vào Huyền Vũ môn, sai Lý Đa Tộ và Phò mã Đô úy Vương Đồng Hiệu đến Đông Cung nghênh đón Hoàng thái tử Võ Hiển vào cung. Thái tử nghi ngờ, do dự, bọn họ nói: "Thần phụng mệnh Tiên Đế phò tá điện hạ, không may sự bị phế, chúng thần đều đau buồn, ròng rã 23 năm trời! Nay thời cơ đến, Bắc môn, Nam nha, tất đều đồng tâm hiệp lực, khôi phục cơ đồ xã tắc họ Lý. Mong điện hạ tạm di giá Huyền Vũ môn, đừng làm chúng thần thất vọng!", thế rồi Võ Hiển lên ngựa đến Huyền Vũ môn, trảm quan gác cổng để vào cung.
Trong khi ấy, bọn người Trương Giản Chi tiến vào trong cung, giết chết anh em Dịch Chi và Xương Tông rồi kéo nhau vào Trường Sinh điện (長生殿), nơi ở của Võ Hoàng. Khi bên ngoài ồn ào, Võ Hoàng thất kinh, hỏi rằng: "Bọn loạn giả là ai?!", Giản Chi nói: "Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông mưu phản, chúng thần phụng mệnh Thái tử mà giết chết. Sự việc nguy cấp, nên làm có chút hồ đồ. Xưng binh cung cấm, tội đương vạn tử!". Võ Hoàng thấy Võ Hiển thì biết rõ cơ sự, bảo: "Tiểu tử đã giết được rồi, mau về Đông Cung đi". Ngạn Phạm không đồng ý, tiến lên nói rằng: "Thái tử an đắc canh quy! Cố nhớ Thiên Hoàng năm xưa để cho con trai ký thác bệ hạ. Nay ngài đã lớn tuổi, vẫn mãi ở Đông Cung, trong khi thiên hạ nhân tâm đều thương nhớ họ Lý. Chúng quần thần không quên ân đức của Thái Tông và Thiên Hoàng, nên cố trừ đi bọn loạn thần. Nay xin bệ hạ truyền ngôi cho Thái tử, ấy là thuận theo ước vọng của thiên hạ!". Võ Hoàng trầm ngâm hồi lâu, nhìn thấy Lý Trạm, vốn là con trai Lý Nghĩa Phủ, bà bèn nói: "Ngươi cũng tham gia chuyện này, giết đi Dịch Chi tướng quân của ta?! Ta đối với cha con ngươi không bạc, hà cớ lại phản ta?!", Trạm sợ hãi không dám đáp, bà bèn nói với Giản Chi: "Bọn chúng ai cũng đều là kẻ khác tiến cử, duy có khanh là do ta cất nhắc! Thế mà khanh cũng hùa theo sao?!". Giản Chi xúc động nói: "Thần làm thế là để bảo vệ đại ân đại đức của bệ hạ". Sau đó, trảm hết tất cả những thân thuộc họ Trương[86].
Ngày hôm sau, Giáp Thìn (ÂL), Võ Hoàng mệnh Thái tử giám quốc, đại xá thiên hạ. Tất cả các đại thần đều trọng thưởng, trong đó có năm người đi đầu: Trương Giản Chi, Thôi Huyền Vĩ, Kính Huy, Hoàn Ngạn Phạm và Viên Thứ Kỷ về sau đều phong làm Quận vương. Sang ngày Ất Tị (ÂL), Võ Hoàng chính thức thiện nhượng, thế là Thái tử Võ Hiển lên ngôi lần thứ hai, Đường Trung Tông, đổi quốc tính từ họ Võ lại thành họ Lý như cũ[81]. Ngày 4 tháng 2 (tức ngày 3 tháng 3 dương lịch), quốc hiệu "Đường" chính thức được khôi phục, nhà Võ Chu chấm dứt. Tổng cộng Võ Hoàng chính thức tiếm ngôi 15 năm.
Ngày Đinh Mùi (ÂL) tháng 1 năm ấy, sau khi Trung Tông lên ngôi, Võ Chiếu được dời qua Thượng Dương cung (上陽宮). Sang hôm sau, Trung Tông dẫn đầu bá quan đến Thượng Dương cung để dâng tôn hiệu, là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế (則天大聖皇帝)[87]. Theo như vậy mà nói, dẫu không được đề cập, nhưng Võ Chiếu đã vẫn giữ vị trí Hoàng đế sau khi thiện nhượng, hẳn được xem là Thái thượng hoàng nữ giới duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ngày 26 tháng 11 (tức ngày 16 tháng 12 dương lịch)[88], Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế triệu chế lệnh về chuyện xưng hô ra sao, lệnh bỏ đi Đế hiệu, phục lại hai họ Vương, họ Tiêu của Vương Hoàng hậu cùng Tiêu Thục phi, nhân đó cũng cho con cháu của Chử Toại Lương và Hàn Viện về kinh sư phục mệnh. Cũng trong ngày, bà băng hà tại Tiên Cư điện (仙居殿) trong Thượng Dương cung. Theo Cựu Đường thư, Võ Chiếu hưởng thọ 83 tuổi, trong khi Tân Đường thư ghi là 81 tuổi[89]. Do Võ Chiếu đã tự lệnh bỏ đi Đế hiệu, vì vậy thụy hiệu của bà là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng hậu (則天大聖皇后). Sang tháng 5 (ÂL) năm sau (706), chính thức làm lễ hợp táng với Đường Cao Tông ở Càn lăng[90].
Có thể thấy vào lúc cuối đời, Võ Chiếu mới có được tôn xưng Tắc Thiên. Người đời sau hay sử dụng 2 chữ này ghép với họ Võ của bà thành tên gọi Võ Tắc Thiên (武則天).
Theo di nguyện trước lúc băng hà, di hài của bà được hợp táng vào Càn lăng cùng với Đường Cao Tông. Bia mộ của bà là một tấm bia để trống hoàn toàn, được gọi là Vô tự bia (無字碑).
Ngôi Càn lăng nhà Đường đã ít nhất 17 lần bị âm mưu đục phá, trong đó có 3 lần nghiêm trọng nhất. Lần đầu trong loạn Hoàng Sào, có tới 40 vạn binh sĩ đào bới tây đồi Lương Sơn, vạt hẳn một nửa quả đồi. Lần thứ 2 do Ôn Thao, tiết độ sứ tại Diệu Châu thời Ngũ Đại Thập Quốc, kẻ trước đó đã đào trộm 17 ngôi hoàng lăng nhà Đường. Lần thứ 3 do quân Quốc Dân đảng của Tôn Liên Trọng thời Trung Hoa Dân Quốc, đã dùng cả thuốc nổ để phá. Nhưng cả ba lần đều không thành, và Càn lăng vẫn nguyên vẹn cho tới ngày nay, trở thành di tích khảo cổ và tham quan quý báu. Về điểm này, Võ Tắc Thiên và chồng đã may mắn hơn những vị hoàng đế nổi tiếng khác, khi mà Mậu lăng của Hán Vũ đế, Chiêu lăng của Đường Thái Tông... đã bị phá sạch trong thời chiến loạn.
Đầu tháng 5 năm 2008, khi các nhà khảo cổ Trung Quốc khai quật lăng mộ Võ Tắc Thiên tại Huyện Càn cách 80 km về phía Tây Bắc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, họ đã tìm được hơn 500 tấn văn vật trong mộ. Việc tìm ra mộ phần và các cổ vật trong mộ Võ Tắc Thiên đã giúp các nhà sử học xác định được nhiều thông tin xung quanh thân thế, sự nghiệp của vị nữ hoàng này. Các nhà khảo cổ phát hiện thấy Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên cùng hợp táng ở tầng ngầm sâu cuối cùng của lăng mộ. Khu lăng tẩm này có ba cửa Đông, Bắc, Tây. Ba cửa này có kết cấu giống nhau, đều có các đài tế lễ trước cửa cung điện, có hành lang đặt Võ khí gươm giáo và cửa cung điện. Tại cửa phía Bắc, các nhà khảo cổ phát hiện thấy rất nhiều ngựa đá, hổ đá, tảng đá trạm trổ điêu khắc, trong đó hổ đá đặc trưng của đời Đường vẫn còn nguyên vẹn. Khu lăng tẩm có quy mô rất lớn với những bức tường bao quanh được xây theo hình vuông rất vững chắc, mỗi cạnh có chiều dài tới 380 mét vuông.
Viện trưởng danh dự Viện nghiên cứu khảo cổ tỉnh Thiểm Tây, Thạch Hưng Bang, đã cho biết, qua những văn vật khai quật được trong mộ cho thấy, thời kỳ Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên trị vì là thời kỳ hưng thịnh nhất của triều đại nhà Đường. Khi Đường Cao Tông chết, giá trị của vật tùy táng quý báu chôn theo vua chiếm tới 1/3 quốc khố. Hơn 20 năm sau, khi Võ Tắc Thiên qua đời, triều đình cũng chôn theo số báu vật trị giá tới 1/3 quốc khố trong mộ bà[91].
Các vụ hành quyết tập thể, xử tử hay lưu đày là quy tắc của Võ Tắc Thiên để loại bỏ đối thủ, kể cả là người thân và những triều thần từng ủng hộ bà. Theo cuốn “Võ Tắc Thiên chính truyện” của học giả Lâm Ngữ Đường, ông kiệt kê rằng: cả đời Võ Tắc Thiên đã mưu sát hoặc ra lệnh giết 93 người (không kể những người thân của họ phải chết theo), trong số đó có 23 người là người thân của bà, 34 người là tôn thất nhà Đường, 36 sáu người là triều thần. Trong số này có bao nhiêu người chết đích đáng, có bao nhiêu bị oan, có bao nhiêu người bị Võ Tắc Thiên cố ý hãm hại, khó có thể xác định được.
Sau khi Võ Tắc Thiên qua đời, các sử gia thời Thịnh Đường, Trung Đường và Vãn Đường đều không chỉ trích nặng nề những việc làm của Võ Tắc Thiên, bởi vì những vị Hoàng đế nhà Đường sau này đều là con cháu trực hệ của bà. Chỉ khi đến thời nhà Tống, quan điểm Nho giáo dưới học thuyết Chu Hi lấy Tuân Tử làm nền tảng, mà Tuân Tử lại xếp "Nữ chủ chuyên chính" làm 1 trong 3 lý do khiến một quốc gia suy vong, nên các sử gia thời kỳ này về sau mới bắt đầu có những lời chỉ trích Võ Tắc Thiên. Tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu vào trong lòng xã hội phong kiến, nên không bao giờ chấp nhận để một người phụ nữ "Vượt quá giới hạn" mà bước lên đỉnh cao quyền lực.
Có thể nói Võ Tắc Thiên là hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử. Những vị Nữ chủ nổi tiếng từ cổ chí kim ở Trung Hoa, có thể kể đến Tuyên Thái hậu nhà Tần, Phùng Thái hậu Bắc Ngụy, Tiêu Xước triều Liêu, và kể cả Từ Hi Thái hậu nhà Thanh tuy đều có thực quyền cai trị, song đều phải có danh nghĩa của một Hoàng đế đại diện (thường là con trai/cháu trai của họ) mà không một ai dám làm việc công khai xưng làm Hoàng đế như bà. Người có thể so sánh gần nhất với Võ Tắc Thiên, ấy chính là Lã hậu nhà Hán, vì tuy bà phải nắm quyền dưới danh nghĩa Lưu Cung và Lưu Hồng, song bà đã thực sự nắm trọn quyền hành triệt để, và cũng chỉ có Lã hậu có thời kỳ trị vì được biên thành "Kỷ" như Võ Tắc Thiên mà thôi.
Võ Tắc Thiên còn được cho là đã sử dụng tuyên truyền tôn giáo để đảm bảo vị trí hoàng đế của mình. Vốn tôn sùng Phật giáo, bà đã ra lệnh đục các tượng Phật tại khu vực hang đá Long Môn. Tại đây pho tượng chính giữa lớn nhất là tượng Phật Đại Nhật (Tỳ lô giá na - Vairocana) được điêu khắc theo khuôn mặt của bà.
Trước khi Võ Tắc Thiên chính thức xưng Đế, có cuộc nổi dậy của Từ Kính Nghiệp, sự oán hận dành cho bà được bộc lộ công khai rất hiếm hoi. Một thiên hịch văn do văn sĩ đương thời là Lạc Tân Vương (駱賓王) khi tham gia cuộc khởi nghĩa đã viết ra để kể tội ác của bà. Câu hịch này được tìm thấy trong Cổ văn quan chỉ (古文观止), quyển thứ 7, nội dung như sau:
“ | (Tạm dịch qua bạch thoại) Ả Võ thị giả mệnh lâm triều, tánh tình không ôn thuận, xuất thân hàn tiện. Xưa thời Thái Tông làm Cung nữ hầu hạ, lo việc dâng thay quần áo. Đến lúc trưởng thành, đã mang tiếng làm nhơ bẩn nội tẩm. Về sau, che giấu việc hầu Thái Tông, lại được vào hầu Tiên đế, đẩy Chúa thượng đến chỗ loạn luân. Rồi rắn độc mang lòng, sói beo thành tinh, lại sinh ra ghen tuông, nhân có chút nhan sắc, không chịu nhường ai, rồi dèm pha, nịnh hót, làm mê hoặc lòng Chúa. Lên ngôi Hoàng hậu đưa đường Tiên đế vào thói hươu nai. Tính tình sài lang, gian ác, tàn hại trung lương, giết chị phản anh, giết vua hại mẹ. Con yêu của vua đem bắt giam ở cung sâu. Bè đảng của giặc, giao cho quyền bính lớn. Thần người đều ghét, trời đất không dung. Muốn đổi ngôi vua, giao cho họ mình quyền cao chức trọng. Hỡi ơi! Hoắc Tử Mạnh không dấy, Chu thị hầu không còn. Én mổ cháu vua, biết vận Hán sắp hết. Dãi rồng Vương hậu, hay Hạ mau tàn. Còn như Kính Nghiệp, vốn là Đại Đường lão thần, dòng dõi vương công hiển hoạn, từng lưu giữ huấn thị của Tiên đế, nguyện cảm ân quốc triều hậu đãi. Tống Huy Tử vì cố quốc bị hủy diệt mà bi ai, đấy là có nguyên do thân tình; Hoàn Đàm vì mất đi tước lộc mà rơi lệ, chẳng lẽ là không hề có đạo lý sao! Bởi vậy ta giận dữ dựng lên làm một phen sự nghiệp, mục đích là vì yên ổn Đại Đường giang sơn. Thuận theo cảm xúc thất vọng của thiên hạ, thuận theo cử quốc đẩy ngưỡng tâm nguyện, vì thế giơ lên cao lá cờ chính nghĩa, thề muốn tiêu trừ yêu vật hại người. Nam đến Bách Việt xa xôi, bắc đến Trung Nguyên Tam Hà, thiết kỵ thành đàn, chiến xa tương liên. Hải Lăng có ngô nhiều đến lên men nhuộm đỏ biển, kho hàng chứa đựng thật là vô cùng vô tận. Bên bờ sông lớn có tinh kỳ tung bay, khôi phục công lao sự nghiệp của Đại Đường vĩ đại còn xa xôi sao! Chiến mã ở gió Bắc hí vang, Bảo kiếm xông thẳng hướng bầu trời. Chiến sĩ rống giận khiến cho núi cao sụp đổ, trời cao biến sắc. Lấy khí thế này tới đối phó kẻ địch, kẻ địch liệu có tự tin khinh dễ; lấy hào khí này tới công kích thành đô, ai dám nói còn thành nào là không thể chiếm lĩnh! Chư vị hoặc là nhiều thế hệ được quốc triều phong tước, hoặc là quan hệ thông gia với hoàng thất, hoặc là tiên tổ từng làm tướng quân, hoặc là đại thần từng tiếp thu di mệnh của Tiên đế. Lời của Tiên đế nói còn văng vẳng bên tai, các vị luôn tự nói hai chữ trung thành nào có thể dễ dàng quên mất? Mộ của Tiên đế còn chưa tốt tươi, Ấu chủ của chúng ta lại không biết bị biếm đi nơi nào! Nếu có thể không ngại nguy nan phù trợ Kim thượng Hoàng đế, mọi người đều chung lòng cứu lấy xã tắc tiên tổ, như vậy các loại phong tước ban thưởng, nhất định giống như Thái Sơn Hoàng Hà, vững chắc lâu dài. Nếu lưu luyến đến ích lợi trước mắt, ở thời khắc mấu chốt do dự không quyết, liền nhất định sẽ thu nhận trừng phạt nghiêm khắc! Thỉnh xem toàn thiên hạ ngày hôm nay! Rốt cuộc là thiên hạ của nhà ai?! Đem hịch văn ban bố đến các Châu quận, cho mọi người đều biết được. | ” |
— "Vi Từ Kính Nghiệp thảo Võ Chiếu hịch" (为徐敬业讨武曌檄), Lạc Tân Vương[92] |
Nhưng thái độ của Võ Tắc Thiên khi đọc bài hịch văn trên khá kỳ lạ. Võ Tắc Thiên hịch lên đọc, rồi nói với cận thần: "Ai là người viết bài hịch này?". Có người đáp: "Kẻ đó là Lạc Tân Vương". Võ hậu lại hỏi: "Người này trước kia đã từng làm chức Thị ngự sử, nhưng sau lại phải biếm". Lại nhìn các đại thần hồi lâu, rồi phán: "Người có tài văn chương thế này, mà để họa phải lưu lạc không được dùng, đó là lỗi của Tể tướng trước kia vậy".
Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà Võ Chu đã có được một hệ thống bình đẳng giới tốt hơn so với nhà Đường giai đoạn tiếp sau nó. Nhiều người đời sau xem Võ Tắc Thiên là điển hình của sự độc ác, khi mà vì quyền lực, bà sẵn sàng hạ thủ người thân, thậm chí bà sát hại ngay cả con ruột của mình (một số người cháu nội ruột, cháu họ cũng bị bà ra lệnh sát hại). Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: "Một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn, trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, tàn nhẫn ngay cả với người thân và cai trị bằng cách điều khiển từ phía sau hậu trường".
Tuy nhiên, trong triều cũng có nhiều người ủng hộ bà, vì phục bà là người quyết đoán, có tài trị nước. Trong số đó có cả những đại thần hiền năng, được trọng vọng như Lâu Sử Đức, Địch Nhân Kiệt, Tống Cảnh; và bà biết tin dùng những người đó, nên việc chính không rối loạn, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, coi những vụ lộn xộn ở triều chỉ là việc riêng của họ Lý. Khi đọc bài Hịch dẹp Võ Chiếu, trong đó Lạc Tân Vương mạt sát bà thậm tệ, bà đã không giận, còn khen Lạc là có tài và trách viên Tể tướng đã không biết thu phục. Bà cũng là người tạo ra nền móng cho nền thịnh trị Khai Nguyên, do nhiều đại thần tài năng thời Huyền Tông là những người được bà được trọng vọng.
Sử gia Tư Mã Quang đánh giá về bà trong Tư trị thông giám[58]:
“ | 虽滥以禄位收天下人心, 然不称职责,寻亦黜之,或加刑诛,挟刑赏之柄以驾御天下,政由己出,明察善断,故当时英贤亦竞为之。 Mặc dù Thái hậu dùng nhiều tên hiệu mĩ miều để phô trương, nhưng nếu bà nhìn thấy một đại thần nào đó là không đủ năng lực, sẽ ngay lập tức sẽ bãi chức hoặc thậm chí là giết chết. Bà còn thưởng phạt phân minh, lãnh đạo triều chính và dùng các phán đoán riêng của mình để quyết định công việc. Thái hậu có óc quan sát và phán đoán tốt, vì vậy những nhân tài đương thời cũng đều có cơ hội được dùng. | ” |
— Bàn về Võ hậu - Tư trị thông giám, Tư Mã Quang |
Học giả người Tây là Denis C. Twitchett, tên chữ Hán Thôi Thụy Đức (崔瑞德), đã bình luận về bà:
“ | 对于这位敢于推翻李唐皇室并像男人一样泼辣地实行统治的女人,尽管儒家历史学家都进行恶毒攻击和抱敌对态度,但是武曌显然具有特殊的才能,对政治具有天赋,并且非常善于操纵宫廷的权力结构。她之所以能非凡地攫取到权力,是由于她的杰出的才能、坚毅的决心和识别人的能力,再加上她的冷酷、肆无忌惮和政治上的机会主义。她对敌人和对手表现出的残忍和报复心,这在中国历史上很少有人能与之相比。 Đối với vị nữ nhân này mà bình luận, bà đã có gan lật đổ Lý Đường hoàng thất và cũng như các nam nhân khác, tuân thủ hành vi đanh thép để cai trị độc đoán. Các Nho gia đối với bà luôn công kích gay gắt, nhưng phải nhìn nhận Võ Chiếu là người hiển nhiên có tài năng đặc thù, đối chính trị có tư chất thiên phú, hơn nữa cực kỳ giỏi về việc thao túng kết cấu của quyền lực cung đình. Sở dĩ bà có thể cướp lấy quyền lực, là bởi vì bà có siêu phàm tài năng, kiên nghị quyết tâm cùng phân biệt sử dụng năng lực của từng người phò tá mình. Đối với nữ giới nói chung, bà cũng vô cùng lãnh khốc, không kiêng nể gì chủ nghĩa cơ hội trên phương diện chính trị. Bà đối với kẻ địch cũng rất là có tâm lý quyết trả đến cùng, đối với lịch sử Trung Quốc mà nói là vô cùng hiếm thấy. | ” |
— "Kiểm kiều Trung Quốc Tùy Đường sử" (剑桥中国隋唐史), Denis C. Twitchett |
Võ Tắc Thiên rất thích các tôn hiệu mỹ miều, do đó đã nhiều lần thay đổi, thêm bớt chữ vào tôn hiệu, bao gồm:
Các thụy hiệu của đời sau tôn phong:
Quy ước: Sử dụng tên riêng | |||
Miếu hiệu | Họ và Tên | Giai đoạn cai trị | Niên hiệu và khoảng thời gian sử dụng |
---|---|---|---|
Không có | Võ Chiếu (武曌) | 690-705 | Thiên Thụ (天授): 16, tháng 11, 690 - 21 tháng 4, 692 (18 tháng) |
(1)Đường Cao Tổ Lý Uyên 566-618-626-635 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(2)Đường Thái Tông Lý Thế Dân 599-626-649 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(3)Đường Cao Tông Lý Trị 628-649-683 | (6)Võ Chu Tắc Thiên Đế Võ Chiếu 624-690-705 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Hiếu Kính Đế Lý Hoằng 652-675 | Chương Hoài thái tử Lý Hiền 654-684 | (4)Đường Trung Tông Lý Hiển 656-684-705-710 | (5)Đường Duệ Tông Lý Đán 662-684-690-710-712-716 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bân vương Lý Thủ Lễ 672-741 | (7)Đường Thương Đế Lý Trọng Mậu 695/698-710-714 | Nhượng Đế Lý Thành Khí 679-742 | (8)Đường Huyền Tông Lý Long Cơ 685-712-756-762 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Quảng Vũ vương Lý Thừa Hoành 763 | Phụng Thiên Đế Lý Tông ?-752 | (9)Đường Túc Tông Lý Hanh 711-756-762 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(10)Đường Đại Tông Lý Dự 727-762-779 | Thừa Thiên Đế Lý Đàm ?-757 | Tương vương Lý Quang ?-791 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(11)Đường Đức Tông Lý Quát 742-779-805 | Y Ngô vương Lý Tuyên | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(12)Đường Thuận Tông Lý Tụng 761-805-806 | □ | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(13)Đường Hiến Tông Lý Thuần 778-805-820 | Tương vương Lý Uân 886 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(14)Đường Mục Tông Lý Hằng 795-820-824 | Giáng vương Lý Ngộ ?-826 | (18)Đường Tuyên Tông Lý Thầm 810-846-859 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(15)Đường Kính Tông Lý Trạm 809-824-826 | (16)Đường Văn Tông Lý Ngang 809-826-840 | (17)Đường Vũ Tông Lý Viêm 814-840-846 | (19)Đường Ý Tông Lý Thôi 833-859-873 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(20)Đường Hy Tông Lý Huyên 862-873-888 | (21)Đường Chiêu Tông Lý Diệp 867-888-904 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đức vương Lý Dụ ?-900-901-905 | (22)Đường Ai Đế Lý Chúc 892-904-907-908 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Như vậy, Võ Tắc Thiên đã ra lệnh giết hại 1 người con ruột và 2 người cháu nội ruột của chính mình (chưa kể 2 người con ruột chết không rõ nguyên nhân, dư luận đồn rằng cũng do bà giết hại).
Theo cuốn “Võ Tắc Thiên chính truyện” của Lâm Ngữ Đường, ông kiệt kê rằng cả đời Võ Tắc Thiên đã mưu sát hoặc ra lệnh giết hại 23 người là người thân, họ hàng của bà.
Khi lên được ngôi Hoàng hậu rồi, Võ Tắc Thiên trả thù Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi bằng cách sai chặt hết chân tay họ rồi bỏ vào chum rượu ngâm để họ không chết ngay. Tương truyền, khi Vương thị bị phế, đã chỉnh tề đến trước Cao Tông từ biệt, nói rằng: "Bệ hạ vạn tuế! Chiêu nghi Võ thị thừa hoan ân sủng, thiếp hẳn phải chết không còn nghi ngờ gì nữa!". Tiêu thị thì quát mắng to: "Võ thị hồ ly! Mê hoặc thánh chủ, hãm hại ta thê thảm thế này! Ta khi chết phải hóa thành mèo, nhảy vào cắn đứt cổ họng của nhà ngươi mới hả dạ!". Từ đó, Võ hậu sai cung nhân đuổi đi và không cho nuôi mèo nữa[34][93].
Võ Tắc Thiên sợ mèo vì đã giết chết con mèo mà bà từng yêu quý nhất. Nhưng nó đã phản bội bà đi theo Vương Hoàng hậu khi bà bị bắt vào lãnh cung. Do đó, bà thẳng tay giết nó và luôn luôn bị ám ảnh bởi tiếng mèo kêu, đêm đêm thấy hình ảnh con mèo hiện về trong giấc ngủ. Lời nguyền của Tiêu Thục phi khi xưa tuy nhiên vẫn ám ảnh bà, có thuyết nói việc bà luôn ở Lạc Dương mà không phải Trường An chính là vì sợ lời rủa của Tiêu Thục phi.
Theo Đường thi kỷ sự (唐诗纪事), vào năm Thiên Thụ thứ 2 (691), Võ Tắc Thiên vào một ngày cuối đông ra vườn ngự uyển thấy cỏ cây xác xơ trơ trọi, liễu đào ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn:
|
|
|
Sau khi viết xong, Võ hậu sai sứ giả đi trước Thượng uyển tuyên chiếu, lấy báo cho Hoa thần. Chỉ trong một đêm bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian, sang ngày Lạp bát tiết (腊八节) đã nở đầy Thượng uyển. Võ Tắc Thiên lấy làm tự mãn cho rằng mình quyền uy tột đỉnh, sai khiến được cả tạo hóa[94].
Câu chuyện này về sau được ghi lại trong tác phẩm gian dân tên Khổng Hạc giám bí ký (控鹤监秘记), đem liên họa sự tích hoa mẫu đơn liên đới với truyền thuyết này. Đó là một ngày đông, Võ Tắc Thiên hứng làm bài thơ trên, cũng cho truyền Sứ giả đem tuyên cáo Hoa thần, cả Thượng uyển đều nở rộ và Võ Tắc Thiên hãnh diện đưa quần thần tham quan. Bỗng dưng Võ Tắc Thiên nhìn một cây mẫu đơn cứng đầu cứng cổ bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa không lá. Máu giận sôi lên, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày loài mẫu đơn ngoan cố xuống tận Lạc Dương. Lạ kỳ thay, vừa xuống phía Nam, mẫu đơn đâm chồi nảy lộc, bung mình thành những cánh hoa đỏ thắm. Võ Tắc Thiện càng giận, cho người đốt chết cây hoa này. Mẫu đơn tuy bị đốt trọi, nhưng đến năm thứ hai, mẫu đơn ngược lại nở càng tăng lên. Đấy là sự tích Võ Tắc Thiên nộ biếm Mẫu đơn (武则天怒贬牡丹), và loài Lạc Dương Mẫu đơn (洛暘牡丹) từ đó trở thành biểu tượng cương liệt[95]
Đấy là sự tích giải thích vì sao từ đó vùng Giang Bắc vắng hẳn loài hoa vương giả, biểu trưng cho quốc sắc thiên hương thường được ví với những trang tuyệt sắc giai nhân. Người đương thời thấy vậy dệt bài "Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ" để ca tụng, tôn thờ khí khái của loài hoa bé nhỏ này, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc chứ không khuất phục giam cầm nơi cung vua phủ chúa. Mẫu đơn cứ thế ban phát hương sắc cho người đời để ai cũng hưởng phúc phần cao quý. Giai thoại này còn được hiểu một cách khác là Võ Tắc Thiên luôn ghen ghét với những giai nhân tuyệt sắc khác, thường kiếm cớ giết hại hoặc hủy hoại nhan sắc của họ để bảo vệ vị trí của mình trong lòng quân vương. Câu chuyện đày hoa mẫu đơn này cũng thường được liên tưởng đến mỗi khi nhắc lại câu chuyện Võ hậu trả thù tình địch và đóng dấu lên trán Thượng Quan Uyển Nhi.
Thượng Quan Uyển Nhi là cháu của Thượng Quan Nghi, Võ Tắc Thiên dùng làm nữ quan lo tất cả các việc văn thư trong hoàng cung và ngoài triều đình.
Bấy giờ, sủng nam Trương Xương Tông tuy hầu hạ Võ Tắc Thiên nhưng lại có tư tình với Uyển Nhi, một lần hai người lén lút gặp nhau thì Võ Tắc Thiên bắt gặp. Tức giận, Võ Tắc Thiên đã ném cái bát vào giữa trán Uyển Nhi (một thuyết khác là Võ Tắc Thiên sai người dùng dao rạch), tạo thành một cái sẹo lớn chính giữa trán. Tuy nhiên vết sẹo lại làm cho Thượng Quan Uyển Nhi trông xinh đẹp hơn. Thế là từ đó lan truyền ra, các tiểu thư, mệnh phụ đều bắt chước vẽ chấm đỏ hoặc hình hoa mai vào giữa trán, trở thành một kiểu trang điểm rất được ưa chuộng dưới triều nhà Đường[96].
Một dị bản khác kể rằng trong một lần ngồi ăn sáng với Võ hậu, Thượng quan Uyển Nhi và Trương Xương Tông bất chấp Võ hậu, liên tục liếc mắt đưa tình với nhau. Võ Tắc Thiên nổi giận quơ dao kề lên trán Thượng Quan Uyển Nhi, khiến Uyển Nhi khiếp hãi vội quỳ xuống cầu xin Võ Tắc Thiên thương xót. Võ Hậu ra lệnh giam Thượng Quan Uyển Nhi và phạt bằng cách khắc dấu lên trán Uyển Nhi nhằm hủy hoại nhan sắc nàng cho nàng sợ mà không dám tái phạm. Tuy nhiên, sau khi khắc xong, trên trán Uyển Nhi lại là hình một bông hoa chứ không phải vết sẹo xấu xí và bông hoa này càng khiến Uyển Nhi trở nên quyến rũ hơn. Đến cả Võ Hậu sau khi gặp lại Uyển Nhi cũng phải thốt lên rằng: "Uyển Nhi, trông ngươi không giống bị khắc dấu chút nào mà ngược lại càng xinh đẹp hơn! Xem ra ông trời đã bảo vệ cho ngươi!".
Sự thật trong những câu chuyện này đến đâu hậu thế khó lòng định đoán nhưng đã phần nào làm chứng minh cho những ghi chép từ xưa về một Võ Tắc Thiên có tính cách mạnh mẽ đến khắc nghiệt, chuyên quyền độc đoán, đầy mưu mô thâm độc và nhất là luôn lạnh lùng, tàn nhẫn mỗi khi ra tay thanh toán địch thủ.
Có nhiều câu chuyện về sự dâm loạn của Võ Tắc Thiên, một phần do đời sau thêu dệt, một phần là sự thật. Bấy giờ, Võ Tắc Thiên được con gái nuôi là Thiên Kim công chúa tiến cử một kẻ lực lưỡng là Phùng Tiểu Bảo, giả bắt hắn tu làm sư để thường xuyên gọi vào cung thông dâm, đổi gọi là Tiết Hoài Nghĩa. Võ Tắc Thiên vô cùng sủng ái, gọi hắn là chú để có cớ cho vào cung. Hoài Nghĩa với danh nghĩa nhà sư đã ra vào cung tự do, lên điện không chào, chính là người dựng Minh Đường, tạo tác tượng Phật Di Lặc khổng lồ và một ngôi chùa rất vĩ đại để vui lòng Võ Tắc Thiên. Tuy nhiên sau đó Võ Tắc Thiên có Thẩm thái y thì lạnh nhạt với Hoài Nghĩa, khiến gã tức giận nổi lửa đốt cháy toàn bộ tượng và chùa. Võ Tắc Thiên không tiện trị tội, đánh đến chết. Xác của Hoài Nghĩa được đem đến đền Bạch Mã và hỏa táng, sau đó trộn lẫn vào trong đống đất bùn được sử dụng để xây một ngôi chùa.
Về già, Võ Tắc Thiên không khỏe, mời Thái y Thẩm Nam Cầu (沈南璆) vào bốc thuốc, nhân đó hỏi về thuốc kích dục. Thẩm Thái y dâng phương thuốc có công hiệu, Võ Tắc Thiên bắt ông phục vụ mình. Dù bồi bổ thế nào, Thẩm Thái y cũng không đáp ứng nổi, cuối cùng lao lực mà chết. Sau khi Thẩm Thái y chết, Thái Bình công chúa liền tiến cử Trương Xương Tông có tài thổi sáo, rất đẹp trai lại có tài trong phòng the khiến Võ Tắc Thiên rất vui. Trương Xương Tông lại tiến cử anh mình là Trương Dịch Chi vào hầu hạ, được phong chức tước bổng lộc cực hậu. Các quan thấy Võ Tắc Thiên đa dâm lụy tình cũng tiến cử con em, thậm chí chính mình vào để hầu Võ hậu hòng kiếm lợi lộc.
Vào năm Thánh Lịch nguyên niên (698), Võ Tắc Thiên bèn lập ra chức Khổng Hạc giám (控鶴鑑), với danh nghĩa là nuôi chim hạc, là nơi tập hợp các thanh niên tuấn tú khỏe mạnh nhằm thỏa mãn mình. Từ "Khổng Hạc giám", Võ Tắc Thiên lại sửa thành Phụng Chấn phủ (奉震府), giao cho Dịch Chi đảm nhậm để quản lý các nam sủng được tiến cung. Ấy là như Hoàng hậu quản lý hậu cung vậy. Những thanh niên bị thất sủng sẽ bị giết để diệt khẩu và ném xuống hồ. Sau này cháu nội là Đường Huyền Tông cho khai quật đã phát hiện hàng đống xương người dưới hồ.
Nhân vật Võ Tắc Thiên xuất hiện trong nhiều bộ phim điện ảnh Trung Quốc:
(Nguồn: Wikipedia)
Sapsan.tech là nơi chia sẻ mã giảm giá, coupon, voucher, thông tin khuyến mãi khi mua hàng online tại các website mua sắm trực tuyến lớn và uy tín tại Việt Nam. Phương châm hoạt động của Sapsan là mang đến cho bạn những thông tin mua sắm online Tiết kiệm tiền, tiết kiệm thời gian.
Liên hệ:
Copyright 2024 by DongLichSu | All Rights Reserved