

Nghi Thiên Chương Hoàng hậu 儀天章皇后 | |||
---|---|---|---|
![]() | |||
Hoàng thái hậu Đại Nam | |||
Tại vị | 1847 - 1883 | ||
Tiền nhiệm | Nhân Tuyên Hoàng thái hậu | ||
Kế nhiệm | Trang Ý Hoàng thái hậu | ||
Thái hoàng thái hậu Đại Nam | |||
Tại vị | 1885 - 1902 | ||
Tiền nhiệm | Nhân Tuyên Thái hoàng thái hậu | ||
Kế nhiệm | Trang Ý Thái hoàng thái hậu | ||
Thông tin chung | |||
Phu quân | Thiệu Trị Thiệu Trị hoàng đế | ||
Hậu duệ |
| ||
Tên đầy đủ | Phạm Thị Hằng (范氏姮) | ||
Tước hiệu | Phủ thiếp Nhị giai Thành phi Nhất giai Quý phi Hoàng thái hậu Thái hoàng thái hậu Thái thái hoàng thái hậu | ||
Thụy hiệu | Nghi Thiên Tán Thánh Từ Dụ Bác Huệ Trai Túc Tuệ Đạt Thọ Đức Nhân Công Chương hoàng hậu 儀天贊聖慈裕博惠齋肅慧達壽德仁功章皇后 | ||
Hoàng tộc | Nhà Nguyễn | ||
Thân phụ | Phạm Đăng Hưng | ||
Thân mẫu | Phạm Phu nhân | ||
Sinh | 20 tháng 6, 1810 Tân Hòa (sau là Gò Công), Đại Nam | ||
Mất | 12 tháng 5, 1902 (91 tuổi) Huế, Đại Nam | ||
An táng | Xương Thọ Lăng | ||
Tôn giáo | Phật giáo |
Nghi Thiên Chương Hoàng hậu (chữ Hán: 儀天章皇后; 20 tháng 6 năm 1810 - 12 tháng 5 năm 1902), hay Từ Dụ hoàng thái hậu (慈裕皇太后) hoặc Nghi Thiên thái hoàng thái hậu (儀天太皇太后), là chính thất Quý phi của Thiệu Trị Hoàng đế, thân mẫu của Tự Đức. Bà là tổ mẫu trên danh nghĩa của các Hoàng đế Dục Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh và là tằng tổ mẫu trên danh nghĩa của hai vị vua Thành Thái và Khải Định
Nghi Thiên thái hoàng thái hậu nổi tiếng là một người đức hạnh, xuất thân cao quý, biết yêu quý dân chúng và giỏi nuôi dạy con cái. Bà tại vị như một bà hoàng đức cao vọng trọng nhất của triều đình Huế trong vòng 55 năm, từ lúc bà trở thành Hoàng thái hậu dưới thời Tự Đức vào năm 1847, cho đến khi qua đời vào năm 1902 dưới thời Thành Thái.
Danh hiệu của bà được đặt cho bệnh viện phụ sản lớn nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh là Bệnh viện Từ Dũ.
Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu có tên húy là Hằng (姮), tên tự là Nguyệt (月),Thường (嫦) hoặc Hào (浩)1 , sinh vào ngày 19 tháng 5 năm Canh Ngọ (tức ngày 20 tháng 6 năm 1810), xuất thân từ dòng họ Phạm Đăng thị (范登氏) tại giồng Sơn Quy (Gò Rùa), huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định, về sau thuộc khu vực ngoại thành thị xã tỉnh lỵ Gò Công thuộc tỉnh Gò Công, ngày nay là thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang. Bà là trưởng nữ của Lễ bộ thượng thư Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, mẹ là Đức Quốc phu nhân Phạm thị.
Theo Đại Nam liệt truyện, các đời trước của bà được truy phong:
Lúc nhỏ bà thích đọc sách, thông kinh sử, có đức hiền. Đến năm 12 tuổi, khi mẹ bà là Phạm Phu nhân lâm bệnh nặng, chỉ thích nằm một mình, tất cả người nhà không ai được gần gũi hầu hạ, bà ngày đêm hầu hạ cơm thuốc, không rời bên cạnh. Đến khi Phu nhân chết, bà ngày đêm kêu khóc không thôi, giữ tang thương xót chẳng nghĩ gì thêm, như người đã trưởng thành, xa gần nghe biết đều tấm tắc khen là lạ. Năm 14 tuổi, Nhân Tuyên Hoàng thái hậu nghe tiếng hiền, tuyển bà làm Phủ thiếp (府妾) cho Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, cháu đích tôn của Gia Long. Bà là người có đức trang kính, giữ nết thuận tòng, được Nhân Tuyên Hoàng thái hậu và Thánh Tổ Hoàng đế yêu mến.
Năm 15 tuổi, bà sinh con gái đầu lòng là Diên Phúc Công chúa Nguyễn Phúc Tĩnh Hảo (延福公主阮福靜好). Năm sau, bà lại sinh Hoàng nữ thứ hai là Nguyễn Phúc Uyên Ý (阮福淵懿)2 . Công chúa Uyên Ý sinh ra năm Minh Mạng thứ 7, nhưng 3 tuổi lại chết non3 .
Ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1829), bà sinh người con thứ ba là trai, đặt tên là Nguyễn Phúc Thì, sau đổi tên thành Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), tức Tự Đức Hoàng đế sau này.
Năm 1841, Thiệu Trị Hoàng đế lên ngôi, thứ bậc nội cung chưa định, bà và những thị thiếp khác chỉ được gọi chung là Cung tần (宮嬪). Tới năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), nhân có việc bang giao, Hoàng đế ngự giá Bắc tuần, bà được sung theo hầu. Khi ấy Cung tần theo hầu rất ít, bà ngày đêm hầu hạ bên cạnh, phàm những ấn báu, vật làm tin, đều giao cho giữ cả. Bà là người đoan trang, nhàn nhã, nghiêm túc, cử chỉ độ lượng, lại thường khuyên răn các cung nhân chăm công việc nên được sung chức Thượng nghi (尚服), đồng thời nhiếp quản coi sóc Lục thượng4 .
Tháng 4 năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), bà được phong Nhị giai Thành phi (二階誠妃), đứng đầu các tước Phi thuộc hàng nhị giai5 . Sách văn rằng:
“ | Kinh Dịch có quẻ Gia Nhân, nên đức tốt về lễ độ trinh chính, kinh Lễ có thiên Nội Tắc, tỏ đạo cả về thứ bậc luân thường. Chọn ngày tốt lành, ban ra sắc mệnh. Nghĩ nay Cung tần Phạm thị, văn phép vốn nếp nhà dòng dõi, phong tư như chất ngọc trắng trong, kính sửa túi khăn, khi tiềm để đã lâu tin tức tốt, đông nhiều con cháu, chốn khuê phòng đều mát mẻ gió hòa. Đoan trang nối sánh tiếng hay, chăm kính thêm dày nết tốt. Kịp khi trẫm lên ngôi báu, gây khuôn mẫu cho phong hóa buổi đầu tiên, đến nay định lại cung giai, cần nêu khen người đức hiền thêm rạng rỡ. Đã xét điển cũ, ban cho trật tôn. Nay tấn phong nàng làm Thành phi, nàng nên nhận lấy xưng hiệu mới vẻ vang, chăm lo công việc trong khuê khổn. Kính theo khuôn phép, nhớ trong lòng chớ sai, lâu chịu ơn vinh, mãi về sau không hết | ” |
— Đại Nam liệt truyện |
.
Tháng 1 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), bà được phong làm Nhất giai Quý phi (一階贵妃), đứng đầu các tước Phi thuộc hàng nhất giai6 . Vua sai các đại thần Vũ Xuân Cẩn, Tạ Quang Cự dâng kim sách đến tuyên phong. Sách văn rằng:
“ | Trẫm nghĩ nguồn gốc cây nên phong hóa, trị nước cốt ở nghiêm sửa trong nhà, triều đình ban xuống ân vinh, trước người nhà sau mới đến người khác. Ngày tốt đã hợp, sắc phong ban ra. Nghĩ nay Thành phi Phạm thị, nghi lễ nhà dòng, đoan trang nết tốt, như ngọc trong sáng, nên khuôn hòa kính, cung giai 9 bậc đứng đầu, đông nhiều con cháu, đầm ấm khí hòa, phong hóa nhị nam gây mới. Phụng dưỡng giữ đạo trong khuê khổn, hòa vui hả dạ cung Từ Ninh, tuổi hoa bốn chục xanh tươi, phần hưởng thụ còn nhiều phúc lớn đức tốt sáu cung tiêu biểu, điển bao phong xứng vẽ áo thêu. Đã xét điển thường, ban cho danh tốt. Nay tấn phong nàng làm Quý phi. Nàng nên kính vâng ân mệnh, giữ đạo cung vi; để dạ chớ quên, đức hòa nhu dùng làm khuôn mẫu; hưởng phúc không chán, ơn bao vinh rộng mãi lâu dài | ” |
— Đại Nam liệt truyện |
.
Bấy giờ, khi có quan lại gì tâu lên vua Thiệu Trị, bà đều ghi nhớ, đến khi ông hỏi đến bà đều y thế mà thuật lại, không sai một chữ. Bà được Thiệu Trị yêu quý lắm, không gọi tên của bà mà chỉ gọi là Phi. Khi Hoàng đế ngự ở điện Khâm Văn nghe chính sự cùng các cơ mật đại thần, Quý phi được lệnh ở sau rèm nghe những lời tâu của các quan. Khi rảnh rỗi, Thiệu Trị cũng thường hay nghe lời bà khuyên giải mà đưa ra quyết định.
Trong Hậu cung, Quý phi chăm nom yêu mến tất thảy các Hoàng tử, Hoàng nữ của bà và các phi tần khác, không phân biệt, kỳ kèo ai là con ai, tất cả đều xem bà là mẹ đích. Tiếng hiền trong cung đồn xa, ai nấy đều nể phục bà.
Đầu năm 1847, Thiệu Trị ốm nặng, bà ngày đêm hầu thuốc thang không nghỉ. Khi ông gần mất, mọi việc về sau đều bí mật phó thác cho bà, ông lại dụ các quan rằng: "Quý phi là nguyên phối của trẫm, là người phúc đức hiển minh, giúp ta coi công việc trong cung cấm đã 7 năm. Nay ý trẫm muốn lập làm Hoàng hậu chính ngôi trong cung, tiếc vì việc không làm kịp mà thôi". Nói rồi, vào ngày 4 tháng 10 năm đó, Hoàng đế băng hà.
Năm 1847, Thiệu Trị băng hà, con bà là Thái tử Hồng Nhậm được chọn nối nghiệp, tức Tự Đức. Lên ngôi, Tự Đức nhiều lần ngỏ ý định tấn tôn cho mẹ, nhưng bà nhất định chối từ. Mãi đến ngày 15 tháng 4 năm Tự Đức thứ 2 (tức 7 tháng 5 năm 1849), nhân dịp khánh thành Gia Thọ cung, bà mới thuận nhận Kim bảo (sách vàng & ấn vàng) và tôn hiệu là Hoàng thái hậu, giúp Hoàng đế Tự Đức việc chính sự.
Tháng 6 năm Quý Mùi (1883), Tự Đức qua đời, để di chiếu tôn bà làm Từ Dụ Thái hoàng thái hậu (慈裕太皇太后). Nhưng vì việc nước lắm rối ren, qua các đời Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc, các vị tự quân đều bị phế truất liên tiếp nên đều không kịp tôn phong.
Năm 1885, Hoàng đế Hàm Nghi kế vị, ông mới có thể làm lễ tấn tôn cho bà theo di chiếu. Cũng ngay năm đó, sau lễ tấn tôn trên, xảy ra Trận Kinh thành Huế 1885, Thái hoàng thái hậu cùng với hai bà Phi của Tự Đức là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu và Học phi Nguyễn Thị Hương, được gọi là Tam cung (三宮), đã nghi giá chạy ra Khiêm cung, rồi lại được Tôn Thất Thuyết mời đến Quảng Trị.
Ngày 3 tháng 6, xe ngựa của Thái hoàng thái hậu dời trở về Khiêm cung, vì cho rằng thành Quảng Trị không hợp làm nơi chốn. Lúc đấy Hàm Nghi Đế vẫn còn chống quân Pháp ở bên ngoài, việc nội chính đều do Thọ Xuân Vương Nguyễn Phúc Miên Định quản lý, gọi là Nhiếp chính vương, nhưng căn bản đều phải thông qua ý chỉ của Tam cung bên trong.
Ngày 27 tháng 6, chính quyền Pháp trao trả kinh thành Huế lại cho triều đình, và mời 3 cung ngự giá về. Bấy giờ, Thọ Xuân Vương cùng Phan Đình Phùng, Nguyễn Hữu Độ bàn luận với các quan Pháp đưa Kiên Giang quận công Chánh Mông lên ngôi, tức Đồng Khánh hoàng đế.
Năm 1887, Đồng Khánh năm thứ 2, hoàng đế tấn tôn mỹ hiệu cho bà là Từ Dụ Bác Huệ Thái hoàng Thái hậu (慈裕博惠太皇太后). Năm 1889, Thành Thái nguyên niên, nhân dịp mừng bà thọ 80 tuổi, bà được Thành Thái dâng tôn hiệu là Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái thái hoàng thái hậu (慈裕博惠康壽太太皇太后).
Năm 1902, mùng 5 tháng 4 (tức 12 tháng 5 năm 1902), Thái Thái hoàng thái hậu băng hà, thọ 92 tuổi, được dâng tên thụy là Nghi Thiên Tán Thánh Từ Dụ Bác Huệ Trai Túc Tuệ Đạt Thọ Đức Nhân Công Chương hoàng hậu (儀天贊聖慈裕博惠齋肅慧達壽德仁功章皇后).
Ngày 20 tháng 5 năm đó, triều đình cử hành đại lễ an táng bà gần phía sau bên trái Xương Lăng, và có tên là Xương Thọ Lăng. Hiện toàn thể khu lăng này tọa lạc tại chân một dãy núi thấp (núi Thuận Đạo), thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế), cách Kinh thành Huế chừng 8 km 7
Lễ xong, bài vị của bà được thờ ở Biểu Ðức điện trong Xương Lăng, được thờ ở Thế Miếu trong Hoàng thành Huế.
Nghi Thiên Chương Hoàng hậu vào cung cùng với Lệnh phi Nguyễn Thị Nhiệm, con gái của Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhơn. Lúc đó địa vị các cung tần đều ảnh hưởng bởi chức tước của cha, khi đó tước của Nguyễn Văn Nhơn cao hơn Phạm Đăng Hưng nên Lệnh phi ở ngôi trên. Nhưng tình cảm như hai chị em, muôn phần yêu mến nhau3 .
Đối với các con và phi tần của Hiến Tổ Chương hoàng đế, bà cũng muôn phần độ lượng, như chuyện của Phục Lễ công chúa phạm tội, sau này Hoàng hậu vẫn cho gỡ tội, chứ không đày đọa dù đó là con của cung nhân họ Hồ, không phải con ruột của bà3 .
Bà dáng điệu khoan thai, nghiêm túc và đoan trang, nếu chưa từng tiếp xúc nhiều người cảm thấy muôn phần đáng sợ3 , có kẻ lại cho là kiêu3 . Một trong những người đó đêm nằm mộng được thần nhân mách rằng: "Người ở chính giữa nhà trước, tức là Hoàng hậu, bọn ngươi rất ngu, chớ có khinh thường"3 . Sau này quả là như thế, khi bà dần trở thành Hoàng quý phi cai quản hậu cung.
Một hôm được Thánh Tổ Nhân hoàng đế ban cho Nghi Thiên hoàng hậu và Lệnh phi mỗi người một cái áo sa cổ thường thêu hoa vàng. Khi yết bái Nhân Tuyên Hoàng thái hậu, mỗi người được Thái hậu một chiếc cúc áo vàng, một cái chạm hình phượng, một cái chạm hình cành hoa, nhưng đều được bọc kín bằng bao đỏ, và bà Thuận Thiên khấn rằng: "Ai được cúc áo chạm hình phượng, thì có con trước".
Rồi Thái hậu sai thị nữ đưa cho Hoàng hậu và Lệnh phi chọn bao, nhưng không được mở ra, để thế mà dâng lên, Hoàng hậu nhường bà Lệnh phi chọn trước. Khi mở ra, bà Lệnh phi được cúc chạm hoa, Hoàng hậu được cúc chạm phượng3 . Quả nhiên bà sinh con gái đầu lòng là Diên Phúc công chúa vào năm 15 tuổi, một năm sau khi tiến cung.
Một đêm kia, Hoàng hậu mộng thấy một thần nhân áo rộng đai to, đầu tóc bạc, lông mày trắng, mang một tờ giấy vàng viết chữ son có đóng dấu và một chuỗi minh châu trao cho, bảo là: "Xem đây để nghiệm về sau". Bà nhận lấy, rồi có thai.
Ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1829), Hoàng hậu khai hoa nở nhụy, sinh ra hoàng tử Nguyễn Phúc Thì, sau đổi là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, tức Tự Đức. Quả nhiên giống giấc mộng, người ta cho là hoàng đế là thần nhân phái xuống làm con bà vậy 3 .
Ở Gò Công hiện còn lưu truyền mấy câu thơ ca ngợi đức tính tốt đẹp của bà và nhắc việc bà được tiến cung:
Và:
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
GS. Trịnh Vân Thanh, trong Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, cho biết:
Trong bài Tượng đài sông Hương: Thái hậu Từ Dũ, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết:
Và trong bài viết "Hoàng Thái Hậu Từ Dũ: Một tấm gương sáng", đăng trên website tỉnh Tiền Giang:
Bởi những đức tính tốt đẹp vừa dẫn trên, người ta đã chọn tên bà để đặt cho một bệnh viện phụ sản, Bệnh viện Từ Dũ, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trước năm 1975, tại thị xã Gò Công thuộc tỉnh Gò Công cũ, tên bà được đặt cho một đại lộ lớn ở ngay khu vực trung tâm thị xã: đại lộ Từ Dũ. Sau năm 1975, đại lộ này đã bị đổi tên thành đường Lý Tự Trọng cho đến ngày nay. Tuy nhiên, hiện nay tại đây cũng có đường Từ Dũ là một phần quốc lộ 50 chạy qua vùng ngoại ô ở phía bắc thị xã theo hướng về thành phố Hồ Chí Minh.
Sách Đại Nam Thực lục Chính biên, trong Thực lục về Tự Đức14 đã ghi rõ: Con thứ hai vua Hiến Tổ Chương hoàng đế...mẹ là Từ Dụ, Bác huệ Khang thọ Thái hoàng Thái hậu....
Trên website Việt Nam gia phả ghi:
Trong Sài Gòn vang bóng cũng đã nói rõ sự lầm lẫn này, cuối cùng tác giả đề nghị: Dù sai một dấu, hai chữ khác nhau cả chữ lẫn nghĩa, vì chữ Hán viết "dụ" và "dũ" khác nhau. Khi phát âm, có thể sao cũng được, nhưng khi viết chúng ta phải viết cho đúng. 15
(Nguồn: Wikipedia)
Sapsan.tech là nơi chia sẻ mã giảm giá, coupon, voucher, thông tin khuyến mãi khi mua hàng online tại các website mua sắm trực tuyến lớn và uy tín tại Việt Nam. Phương châm hoạt động của Sapsan là mang đến cho bạn những thông tin mua sắm online Tiết kiệm tiền, tiết kiệm thời gian.
Liên hệ:
Copyright 2024 by DongLichSu | All Rights Reserved